Nằm ở phía Nam của châu Âu, Không chỉ nổi tiếng là Kinh đô thời trang, đất nước Italia với những công trình kiến trúc mang dáng dấp của một vương quốc La Mã cổ xưa và huyền thoại, từ lâu đã là điểm đến mơ ước của nhiều du khách.
Văn hóa Italia được thể hiện qua những di tích, những thắng cảnh tuyệt vời có rất nhiều trên đất nước này, như đấu trường Coloseum, như đài phun nước Trevi, như Vatican, như giáo đường Duomo, như rất nhiều quảng trường hiện diện trên khắp các thành phố, thị trấn Italia…. Tìm hiểu văn hóa Italia, chúng ta sẽ thấy một đất nước với một chiều dài lịch sử và một nền văn hoá đồ sộ, cổ kính và lâu đời "có một không hai".
Italia là vùng đất của những huyền thoại, của vẻ đẹp kiến trúc – lịch sử – văn hóa vang danh một thời. Trải nghiệm và thích thú, chính là cảm giác không thể nào quên khi du khách đã từng một lần đặt chân đến vùng đất xinh đẹp và cổ kính này.
Italia – Cái nôi của nền văn minh Châu âu
Italia từng là nơi xuất phát của nhiều nền văn hoá châu Âu, như Etruscan và La Mã, và sau này cũng là nơi sản sinh ra phong trào Phục hưng Italia. Thủ đô Roma của Italia từng là trung tâm của nền Văn minh phương Tây, và là trung tâm của Giáo hội Công giáo La Mã.
Có người cho rằng, người Italia đã sáng lập ra du lịch từ thế kỷ XVI, nhưng chắc chắn không một quốc gia nào trên thế giới có thể để lại cho nhân loại nhiều biểu tượng văn hóa, ngành công nghiệp ôtô hàng đầu, kiến trúc, thời trang, các vở opera kinh điển, hội họa, điêu khắc và ẩm thực.
Mãi đến năm 1861, Italia mới trở thành một nước thống nhất từ nhiều lãnh thổ tự trị. Điều này đã hình thành nên các truyền thống và tập tục đặc trưng từng vùng, làm nên bản sắc văn hóa Italia ngày nay. Ngược lại với sự cô lập chính trị và xã hội của các vùng này, Italia vẫn có những đóng góp đáng kể vào di sản văn hóa và lịch sử của châu Âu và thế giới. Hiện nay, Italia được coi là nơi lưu giữ nhiều công trình di sản văn hóa thế giới bậc nhất.
Văn hóa của Italia tiết lộ trong các di tích cổ và tàn tích lịch sử, phản ánh tinh thần giác ngộ và sang trọng
Kể từ khi ra đời, đất nước đã đóng góp đủ vào sự tiến bộ của nền văn hóa thế giới. Những người Italia, chuyên gia và hiệu quả trong tất cả các lĩnh vực văn hóa như văn học, âm nhạc, kiến trúc và điêu khắc là các tác giả của kiệt tác trong các lĩnh vực tương ứng. Mặc dù tất cả những khác biệt khu vực và địa hình, di sản văn hóa của Italia là điều mà các cherish Italia và tự hào về, và họ cảm thấy đặc quyền này để bàn giao di sản văn hóa phong phú cho tới thế hệ tới.
Sự mở rộng của Văn hóa của Italia đã bắt đầu chủ yếu trong thời Phục hưng đó bắt đầu một cuộc cách mạng toàn diện trong lĩnh vực văn hóa khác nhau trên toàn cầu. Hiệu quả của thời Phục Hưng ở châu Âu đã được trực tiếp cảm thấy trên bán đảo Italia. Kết quả là, thời kỳ này đã chứng kiến một số thay đổi mạnh mẽ, vô cùng ảnh hưởng đến trí tưởng tượng, sáng tạo, hàng tồn kho và trí tuệ của con người nói chung. Chuyển đổi đột ngột này, nhưng rõ ràng đã được hấp thu trực tiếp của dân Italia và tiết lộ trong các tác phẩm nghệ thuật sau này.
Điêu khắc, kiến trúc, nghệ thuật, khoa học, ngôn ngữ, văn học, thể thao, triết lItalia và âm nhạc được mua một chiều hướng mới trong các mặt văn hóa mới này và trỗi dậy ngoạn. Tác phẩm nổi tiếng đã được sản xuất bởi cá tính ưu việt của Italia. Trong lĩnh vực văn học, một số kiệt tác như "The Divine Comedy" được viết bởi Dante Alighieri. Một hình thức mới của phong cách thơ được gọi là "Sonnet" tiến hóa do thời Phục Hưng. Sonnet như là một hình thức nổi bật của phong cách văn học đã được giới thiệu của nhà thơ nổi tiếng Italia, Petrarch và sau đó theo sau Shakespeare. Nhà triết học của thanh danh như Niccolò Machiavelli với tạo đời đời của ông, "The Prince" đề xuất phương pháp mới của cầm quyền đất nước và dẫn đầu chính phủ. Machiavelli của việc thay đổi các chính trị Nhận định hiện hành và sửa đổi các quan điểm thiên vị đến một mức độ lớn. Tên của Michelangelo (người sáng tạo của David, Pietà và Môi-se), Leonardo da Vinci (họa sĩ của Monalisa), Titian và Raphael là inseparably liên kết với tác phẩm điêu khắc Italia và tranh vẽ.
Trong khi đó, tiến bộ trong lĩnh vực khoa học và công nghệ là lúc chiều cao của nó với sự đóng góp bao la Galileo Galilei trong thiên văn học. Các nhà vật lItalia nổi tiếng, Fermi nghiên cứu LItalia thuyết lượng tử, trong khi những vấn đề liên quan đến pin điện đã được đưa chăm sóc bởi Volta. Như nhà toán học Lagrange và Fabonacci, người đoạt giải Nobel như Marconi (phát minh ra đài phát thanh) và Antonio Mencci đóng góp vô cùng hướng tới sự phát triển văn hoá của Italia trong độ tuổi này.
Italia - Đa dạng các loại hình văn học nghệ thuật
Một loạt các trào lưu nghệ thuật và trí thức lan rộng khắp châu Âu bắt nguồn từ Italia, bao gồm Thời Phục hưng và Thời Ba-rốc, cùng với những nghệ sĩ đã đi vào huyền thoại như Michelangelo, Leonardo da Vinci, Donatello, Botticelli, Fra Angelico, Tintoretto, Caravaggio, Bernini, Titian và Raffaello.
Văn học Italia có truyền thống nổi tiếng lâu đời về tính chất sáng tạo mới mẻ và tính độc đáo. Truyền thống La tinh được các học giả lưu giữ, ngay cả sau khi đế chế La Mã phương Tây suy vong. Nền văn học Italia thể hiện một quá trình thay đổi lớn qua sự phát triển của thời kỳ phục hưng và đã được thể hiện qua những tác phẩm của Aligheiri Dante, Petrarch, và Boccaccio. Các tác phẩm Divine của Dante, Sonnets của Petrarch đến tác phẩm Decamerone của Laura và Boccaccio đều là những tác phẩm tiêu biểu đối với các nhà văn trong thời phục hưng sau này.
Ngôn ngữ Italia hiện đại xuất phát chủ yếu từ phương ngữ của vùng Firenze và một trong những người có công xây dựng tiếng Italia chính là Dante Alighieri, tác giả của tác phẩm danh tiếng "Divina Comedia" (Thần khúc), được coi là một trong những tuyên ngôn văn chương đầu tiên xuất hiện ở châu Âu và thời Trung đại.
Ngoài ra, một cách biểu đạt văn chương mới, thể loại sonnet, cũng được sáng tạo ra từ Italia, qua các tác giả văn học nổi tiếng như: Boccaccio, Giacomo Leopardi, Alessandro Manzoni, Tasso, Ludovico Ariosto, và Petrarch. Ngoài ra không thể không kể đến những triết gia điển hình như: Bruno, Ficino, Machiavelli, và Vico.
Tác giả văn học hiện đại đoạt giải Nobel là nhà thơ Giosuè Carducci vào năm 1906, Grazia Deledda năm 1926, Salvatore Quasimodo năm 1959 và nhà viết kịch sân khấu Dario Fo năm 1997.
Giai đoạn văn học của Italy lớn nhất là trong thế kỷ 14 Ba nhà văn quan trọng nhất là Dante, Petrarca và Boccaccio. Dante nổi tiếng với các Divine Comedy, đó là thực sự về Thiên đàng và địa ngục! Trong thực tế, mô tả của ông về cả Heaven và Hell rất nhiều liên kết với các khái niệm hiện đại của Petrarca làm việc hơn là triết học, được gọi là ‘cha đẻ của nhân văn ".. Như một nhà thơ, ông hoàn thiện các Sonnet. Boccaccio đã viết một số tác phẩm vượt thời gian và’ ông Decameron ‘có thể được hưởng ngay cả của người đọc hiện đại.
Từ âm nhạc dân gian tới âm nhạc cổ điển, âm nhạc luôn đóng vai trò quan trọng trong văn hoá Italia. Là nơi sinh của opera, và ngôn ngữ của Italia đã cung cấp từ vựng âm nhạc, thiết lập nhiều nền tảng cho truyền thống âm nhạc cổ điển. Vào cuối thế kỷ XVI, các nhạc sĩ và thi sĩ thời Phục hưng ở Florence bắt dầu đưa thơ vào nhạc.
Những vở opera đầu tiên được sang tác vào đầu thế kỷ XVII tại Roma, Venice và Napoli. Khi sự yêu chuộng opera lan ra khắp nước, mỗi thành phố đã phát triển một phong cách opera của riêng mình. Nhà soạn nhạc Claudio Monteverdi, được coi là cha đẻ của opera hiện đại, là người đứng đầu trong số những nhà soạn nhạc thuộc trường phái Venice. Nhiều tác phẩm của ông được trình diễn trong nhá hát opera công cộng đầu tiên của Italia tại Venice năm 1637.
Chẳng mấy chốc, các nhạc sĩ hàng đầu châu Âu như Frideric Handel đã tới Italia để nghiên cứu opera. Vào cuối thế kỷ XVII, Alessandro Scalatti đã sang tác gần 100 bản opera và làm cho Napoli trở thành trung tâm của opera. Trong thế kỷ XVIII, phần kịch bản của opera trở nện quan trọng hơn, và những khúc nhạc cũng phức tạp hơn. Nhà hát opera nổi tiếng nhất châu Âu, La Scala, được khánh thành tại Milan năm 1778, và thậm chí cả Mozart vĩ đại cũng bắt đầu soạn những vở opera để trình diễn ở đây.
Thế kỷ XIX là thời kỳ âm nhạc thịnh vượng nhất tại Italia. Gioachino Antonio Rossini sang tác vở opera hài hước kinh điển Người thợ cạo thành Seville năm 1816. Giuseppe Verdi, được coi là nhà soạn nhạc tài năng nhất Italia, đã soạn 26 vở opera, trong đó có các vở Rigoletto (1851), Il Trovatore (1853), La Traviata (1853) và Aida (1871). Vở Aida được sáng tác ở Ai Cập, được trình diễn với những con lạc đà và voi thật trên sân khấu. Những vở opera của Verdi nổi tiếng bởi cốt truyện xúc động và các nhân vật chân thực. Một số vở opera của ông được rút ra từ những tác phẩm của Shakespeare và Victor Hugo, và các chủ đề của ông thường gắn với đấu tranh chống áp bức. Gia Puccini cũng là một nhà soạn nhạc tầm cỡ của thời kỳ này. Các vở La Boheme (1869) và Madame Butterfly (1904) của ông ngày nay vẫn còn được khán giả yêu thích bởi cốt truyện lãng mạn, xúc động và những giai điệu mượt mà.
Opera của Italia nguyên chỉ dành cho tầng lớp thượng lưu. Với việc mở cửa nhà hát opera công cộng tại Venice, nó trở thành nguồn giải trí của mọi người. Vào đêm khai mạc một vở diễn mới, đám đông khan giả lèn chặt nhà hát. Mọi người bàn luận về vở opera mới sau khi xem. Vào thế kỷ XIX, đi xem opera trở thành một sinh hoạt xã hội chủ yếu của người Italia. Thậm chí ngày nay, khán giả opera Italia vẫn thích bàn luận về opera hay những vấn đề khác trong buổi diễn; vài người theo dõi sát những diễn biến trên sân khấu, số người khác thì bình phẩm với người xung quanh.
Là nơi sản sinh ra dòng nhạc opera, Italia đã xây dựng nền tảng vững chắc cho truyền thống âm nhạc cổ điển. Các nhạc cụ cổ điển như dương cầm và viôlông được sáng tạo ra từ Italia và nhiều thể loại nhạc cổ điển như giao hưởng, côngxectô và xô nát cũng đã xuất hiện từ thế kỷ 16,17 trong nền âm nhạc nước này. Những nhà soạn nhạc tài ba của Italia trong thời kì Phục hưng là: Palestrina và Giusseppe Verdi, các nhà soạn nhạc Ba-rốc như: Alessandro Scarlatti và Vivaldi, các nhà soạn nhạc cổ điển như Rossini và Paganini, nhà soạn nhạc lãng mạn như Verdi và Puccini. Hai nhà soạn nhạc Berio và Nono cũng có góp quan trọng vào nền âm nhạc hiện đại với sự phát triển của nhạc điện tử thử nghiệm.
Các nhạc cụ gắn liền với âm nhạc cổ điển, và nhiều hình thức âm nhạc cổ điển hiện tại đều có thể tìm thấy nguồn gốc từ những phát minh ở thế kỷ 16 và 17 trong âm nhạc Italia (như symphony, concerto và sonata). Một số nhà soạn nhạc Italia nổi tiếng nhất gồm các nhà soạn nhạc thời Phục hưng Giovanni Pierluigi da Palestrina và Claudio Monteverdi, các tác gia phong cách Baroque Arcangelo Corelli và Antonio Vivaldi, các nhà soạn nhạc Cổ điển Niccolò Paganini và Gioacchino Rossini, và các nhà soạn nhạc Lãng mạn Giuseppe Verdi và Giacomo Puccini. Các nhà soạn nhạc Italia hiện đại gồm Luciano Berio và Luigi Nono cũng đóng góp đáng kể cho sự phát triển của âm nhạc thể nghiệm và âm nhạc điện tử.
Italia tự hào có một thời gian dài phong cách kiến trúc khác nhau, từ cổ điển La Mã và Hy Lạp, Gothic, Phục Hưng, Baroque, Neo-Classical, Art Nouveau để hiện đại. Kiến trúc Italiabắt đầu với Hy Lạp cổ đại, La Mã cổ đại và Etruscan, khi cả hai nền văn minh được xây dựng đền thờ, basilicae, cột, các diễn đàn, cung điện, aqueducts, tường và phòng tắm công cộng. Sau khi các nền văn minh cổ điển, tiếng Italia phát triển một kiến trúc nổi tiếng Gothic đặc biệt là hướng tới thế kỷ 12. Thành phố như Venice, Vicenza, Florence, Siena, Assisi và Pisa chủ yếu là bị ảnh hưởng bởi thời kỳ kiến trúc Gothic và Roman. Sau đó, trong thế kỷ 15 và 16, Italia đã trở thành nơi sinh của Phục hưng với Florence và Rome là trung tâm chính của nó. Sau đó, Italia đã trở thành một trung tâm chính của châu Âu cho baroque, với đa dạng phong cách kiến trúc baroque mới nổi, đặc biệt là ở Sicily. Sau đó, trong tân thế kỷ 18 và 19-tòa nhà theo phong cách cổ điển bắt đầu xuất hiện tại Rome, Milan, Torino và tất cả xung quanh Italy. Hiện nay, kiến trúc và thiết kế ở Italia được coi là đẳng cấp thế giới và rất nổi tiếng với Milan là thủ đô của đất nước. Nhiều kiến trúc sư người Italia hiện đại, như Renzo Piano, nổi tiếng trên toàn thế giới.
Nghệ thuật và viện bảo tàng ở Italia giành được danh tiếng của nó trên toàn thế giới. Các viện bảo tàng Italia như một bộ sưu tập độc đáo của nghệ thuật và văn hóa mà nó có đúng được gọi là fide bona mở không khí nghệ thuật thư viện. Các bộ sưu tập của nghệ thuật và viện bảo tàng là những kho báu của Italia. Theo nguồn tin của UNESCO, Italia có hơn một nửa số bộ sưu tập của thế giới về nghệ thuật và viện bảo tàng. Italia bao gồm nghệ thuật của nhà thờ, nhà thờ, tu viện pariches, convents, thánh đường, lâu đài và biệt thự.
Venice ở Italia có một số viện bảo tàng ngoài trời tuyệt vời. Venice của Bảo tàng nghệ thuật hiện đại và Bảo tàng Nghệ thuật phương Đông nổi tiếng với những bức tranh đẹp của nó. Các Bảo tàng Peggy Guggenheim và Bảo tàng Correr nổi tiếng về bức tranh nghệ thuật. Các Peggy Guggenheim Museum từng là nơi ở của những người Mỹ heiress Peggy Guggenheim. Bảo tàng có một số bức tranh đẹp của Picasso, Chagall, Mondrian, Kandinski và Đại Italia.
Các thư viện Accademia của Venice nổi tiếng với những bức tranh của các lần thứ 14 và thế kỷ thứ 15. Bộ sưu tập này có bức tranh của Titian, Tintoetto và Canaletto Arsenale Bảo tàng. Có mô hình Serenissima Tàu và các mô hình khác trong lịch sử hải quân.
Bảo tàng Correr ở Venice lần đầu tiên bắt đầu năm 1830 với sự tài trợ của các bộ sưu tập nghệ thuật của Teodoro Correr. Các bức tranh của Carpaccio đã giành được danh tiếng cho bảo tàng này.. Bức tranh của những con người trẻ tuổi và hai nữ Venezia rất đáng xem. Còn bảo tàng nghệ thuật của Grande Scuola di San Rocco có một số bộ sưu tập tuyệt vời của bức tranh của Tintoretto.
Cùng với điện ảnh Pháp, điện ảnh Italia là một trong những nền điện ảnh lâu đời nhất thế giới và là trụ cột của ngành công nghiệp điện ảnh châu Âu. Italia và Pháp cũng là hai quốc gia dẫn đầu về số Giải Oscar cho phim ngoại ngữ hay nhất, vượt xa các nền điện ảnh lớn khác.
Chỉ vài tháng sau khi Anh em Lumière phát minh ra kỹ thuật điện ảnh, nền nghệ thuật mới này đã xuất hiện ở Roma, Italia khi Giáo hoàng Leo XIII được ghi hình trong thời gian vài giây trong khi đang cầu nguyện.
Công nghiệp điện ảnh Italia được thực sự hình thành trong khoảng thời gian từ năm 1903 đến 1908 với 3 hãng phim lớn, Cines ở Roma, Ambrosio ở Turino và Itala Film. Các hãng phim khác cũng nhanh chóng được thành lập tại Milano và Napoli. Chỉ trong thời gian ngắn, các công ty này đã nhanh chóng sản xuất được những bộ phim có chất lượng và thực hiện việc xuất khẩu phim ra bên ngoài nước Italia. Sở trường thời bấy giờ của điện ảnh nước này là các bộ phim lịch sử với tác phẩm đầu tiên là La presa di Roma, 20 settembre 1870 được đạo diễn Filoteo Alberini thực hiện năm 1905. Các bộ phim tiếp theo nói về những nhân vật nổi tiếng trong lịch sử như Bạo chúa Nero, Julius Caesar và Cleopatra được công chúng đón nhận nồng nhiệt. Bộ phim của Arturo Ambrosio, Gli ultimi giorni di Pompei (Ngày cuối cùng của Pompei, 1908) nổi tiếng tới mức chỉ sau đó 5 năm nó đã được làm lại một phiên bản khác do Mario Caserini đạo diễn. Các nữ diễn viên điện ảnh ngôi sao (tiếng Italia: diva) đầu tiên của công nghiệp điện ảnh Italia có thể kể tới Lyda Borelli, Francesca Bertini và Pina Menichelli, trong đó Francesca Bertini có lẽ là một trong những diễn viên đầu tiên xuất hiện trên bán khỏa thân trong một bộ phim.
Trong khi điện ảnh Italia đang phát triển rực rỡ thì chính quyền Phát xít Italia bắt đầu tăng cường kiểm soạt các loại hình nghệ thuật phổ biến, bao gồm cả điện ảnh. Dưới sự ủng hộ của Benito Mussolini, một khu vực lớn ở phía Tây Nam Roma đã được dành riêng để xây dựng một khu phố điện ảnh (ex novo) cực lớn lấy tên là Cinecittà. Khu phố này được quy hoạch để có tất cả những cơ sở cần thiết cho một bộ điện ảnh, bao gồm các rạp phim, các khu trường quay, khu kĩ thuật và thậm chí là một trường dạy quay phim cho các nghệ sĩ trẻ. Cùng lúc này, Vittorio Mussolini, con trai của nhà độc tài cũng đứng ra thành lập một công ty sản xuất phim quốc gia để tạo điều kiện hoạt động cho tất cả các tài năng điện ảnh, từ đạo diễn, nhà biên kịch đến diễn viên. Kết quả của những chính sách khuyến khích điện ảnh này là sự ra đời của một thế hệ đạo diễn cực kì tài năng gắn với Cinecittà trong đó phải kể tới Roberto Rossellini, Federico Fellini và Michelangelo Antonioni
Italia là đất nước có vẻ đẹp rạng rỡ. Người Italia ăn mừng Giáng sinh và năm mới bằng cách trang hoàng tráng lệ. Hàng năm có hàng trăm lễ hội được tổ chức ở gần như tất cả các thị trấn ở Italia. Lễ kỷ niệm, lễ hội, và những bữa tiệc bên đường phố là một phần trong cuộc sống của người Italia.
Italia cũng là quốc gia tổ chức đăng cai một số những sự kiện quốc tế quan trọng như liên hoan phim, khiêu vũ và nghệ thuật.
Các lễ hội tươi sáng và đầy màu sắc tại Italia diễn ra quanh năm, thu hút một số lượng đáng kể các khách du lịch. Thậm chí, họ cũng tham gia sâu trong nhiều màu sắc của không khí lễ hội. Lễ hội là một cách để phù hợp với văn hóa Italia.
Lễ Giáng sinh
Đối với người theo đạo Thiên Chúa, Lễ phục sinh là một trong những ngày lễ quan trọng nhất trong năm cùng với Ngày Chúa giáng sinh (24/12). Lễ phục sinh thường diễn ra vào tháng 3 hay tháng 4 hằng năm nhằm tưởng niệm sự kiện Chúa Jesus sống lại sau khi bị đóng đinh trên thập giá.
Gia đình quây quần bên nhau trong đêm Giáng sinh |
Ở Italia, gia đình quây quần bên nhau là chuyện thường diễn ra, nhưng tụ họp gia đình có một ý nghĩa rất đặc biệt trong mùa Giáng sinh và Phục sinh. Các cửa hiệu được trang hoàng bằng những dây đèn, các nhóm "mục đồng" chơi kèn túi, những người bán dạo bán những bịch hạt rẻ rang nóng hổi.
Trong nhà, các gia đình làm những mô hình Chúa Giáng sinh thu nhỏ bày ở nơi trang trọng nhất trong phòng khách. Các hình người ăn mặc theo trang phục truyền thống Italia và khung cảnh cũng mang vẻ Italia hơn là ở Bethlehem, nơi Chúa Jesus ra đời. Cho dù gia đình có nghèo đến mấy đi nữa, thì mô hình này cũng có thể được làm từ những chất liệu rẻ tiền như giấy, đất sét và đá.
Mô hình Chúa giáng sinh thu nhỏ được đặt ở nơi trang trọng nhất trong phòng khách |
Giống như nhiều nước phương Tây, người Italia ngày nay thường kỷ niệm lễ Giáng sinh bằng cách dựng một cây thông trong nhà. Họ cũng đốt một khúc củi Noel được gọi là "ceppo" mỗi đêm và những đứa trẻ theo truyền thống được nhận những món quà vào ngày Giáng sinh và ngày 6 tháng Giêng, ngày Lễ Hiển linh. Lần tặng quà thứ hai được coi là của ông tiên nhân hậu Befana. Tất nhiên, những món quà đẹp chỉ dành cho những đứa trẻ ngoan, còn những đứa hư chỉ được nhận than và tro.
Cả gia đình ở Italia tụ tập vào ngày Giáng sinh, thường bắt đầu bữa tiệc bằng món bột nhào thập cẩm ăn với nước dùng, tiếp đó là món gà Tây hay gà trống thiến béo ngậy và kết thúc là món tráng miệng truyến thống của địa phương. Người Italia thích ăn món bành xốp panettone trong lễ Giáng sinh. Món panettone đặc trung được làm từ nho khô và các loại hoa quả tẩm đường, nhưng mỗi địa phương có một cách làm riêng. Một số được phủ một lớp Chocolate, số khác là hạnh nhân rang.
Lễ hội ném cam
Lễ hội Ivrea là một trong những lễ hội truyền thống nổi tiếng nhất ở đất nước hình chiếc ủng. Lễ hội, diễn ra từ ngày 2 đến mùng 5 tháng 2 hàng năm, độc đáo và thú vị, giống như một trận chiến thực thụ. Toàn bộ chiến binh lâm trận đều chiến đấu hăng say. Vũ khí của họ chính là những quả cam chín đỏ. Lễ hội ném cam này tái hiện một cuộc chiến có thật vào năm 1194, khi cô con gái tên Violetta của ông chủ cối xay đứng lên chống lại một tên bá tước hung bạo, dẫn đến cuộc nổi dậy. Người dân vùng Ivrea và các khách du lịch trong và ngoài đất nước hình chiếc ủng tham gia lễ hội một cách say mê không chỉ vì không khí náo nhiệt vui vẻ mà còn chính vì ý nghĩa lịch sử đó.
Trong suốt thời gian diễn ra lễ hội, người tham gia chìm đắm trong hương vị những trái cam chín đỏ trong hàng ngàn thùng gỗ pha lẫn mùi rượu vang đỏ "Vin brulé" hăng hăng. Mọi người đi san sát bên nhau đổ về mọi hướng. Người chơi hội cũng có thể cưỡi ngựa lội trên thảm cam có khi dày đến hơn 20cm. Tiếng ngựa phi nước kiệu kéo theo các chiến binh của tên bạo chúa đội mũ và mặc áo giáp sắt, tiếng hô hào của những người nổi dậy và cả tiếng hò reo khi ông chủ cối xay trên xe ngựa chạy ngang qua tung hoa mimosa màu vàng và kẹo vào đám đông.
Ấn tượng về lễ hội càng trở nên sắc nét hơn bởi vô vàn chiếc mũ màu đỏ khắp mọi nơi. Violetta và đám đông đội mũ dài màu đỏ tươi là biểu tượng của sự tự do. Vì vậy, người tham gia lễ hội không bị ném cam vào người khi đội chiếc mũ màu đỏ đó. Dẫu vậy, họ vẫn khó có thể tránh khỏi những trái cam, dù không bị ném trực tiếp.
Thế nhưng, để thực sự tham gia vào lễ hội và vui hết mình, người chơi cần phải bỏ mũ và nhảy vào vùng chiến. Họ có thể đóng vai giới quý tộc, đại điện cho những kẻ hung bạo ngồi trên những chiếc xe tải, đụng độ với người dân địa phương cũng như du khách của thành phố có từ thời Trung cổ này.
Cảnh kỳ thú nhất của lễ hội ném cam là lúc đi qua đoạn cầu cổ. Các đường phố nhỏ hẹp chất đầy cam nát cao đến nỗi thỉnh thoảng người ta phải dùng xe cán tuyết để dọn đường. Chỉ có duy nhất một tấm lưới nhỏ che chắn giữa vùng chiến sự, nếu muốn đi qua nó thì phải căn thời gian chuẩn, nếu không thì có thể sẽ bị dính rất nhiều “đạn cam”. Trước đây, cam được phép ném qua cả cửa sổ dẫu người dự lễ hội có đội mũ đỏ hay không nhưng do việc này có thể gây nguy hiểm nên ngày nay, người tham gia chỉ được ném cam từ mặt đất vào xe ngựa hoặc xe tải và ngược lại.
Giống với các cuộc chiến thực sự, lễ hội ném cam này cũng không tránh khỏi cảnh thương tích. Mỗi dịp lễ hội, có tới hàng trăm nghìn người đổ về Ivrea và có tới cả trăm người bị thương. Thế nhưng, đây không phải là cuộc chiến, không phải bạo lực, mà là dịp mà người ta có thể giải tỏa căng thẳng, bạo lực trong lòng để sống vui vẻ hơn.
Lễ hội đua thuyền St. Ranieri tại Pisa, Italia
Pisa, Italia là nơi tổ chức cuộc đua thuyền St. Ranieri vào ngày 17/6 hằng năm. Đây là hoạt động bày tỏ lòng biết ơn với các vị thần đã bao bọc và chở che cho Pisa.
Cuộc đua thuyền St. Ranieri diễn ra trên sông Arno. Các tay đua sẽ phải vượt qua quãng đường 1500 mét, với 4 thuyền đua có màu khác nhau và phải đi qua 4 quận của thành phố.
Mỗi một thuyền tham gia đua phải có 8 người chèo thuyền, trong đó có một người lái thuyền và một người chèo chính (người này sẽ phụ trách việc cầm lá cờ chiến thắng khi kết thúc đường đua).
Đội chiến thắng sẽ nhận các loại phần thưởng khác nhau, thường là những con vật thật đặc biệt.
Có người nhận được một con bò đực, có người lại được một con cừu, một con lợn. Tuy nhiên, những người thua cuộc cũng nhận được phần thưởng là một con gà trống hoặc một con ngỗng non. Lễ hội này được bắt nguồn từ thế kỉ thứ XII khi những cuộc tranh chấp giữa những người sống dưới nước và trên bờ diễn ra thường xuyên.
Những căn nhà dọc hai bên bờ sông Arno sẽ thay đổi để phù hợp với cuộc đua thuyền cũng như những gì mà người ta tin là thần hộ mệnh của Pisa vào ngày 16/06 – trước khi cuộc đua diễn ra 1 ngày. Những tòa nhà, những cây cầu và lan can dọc theo bờ sông được thắp sáng bằng khoảng 70.000 ngọn nến lớn nhỏ khác nhau. Trong khi đó có hàng nghìn chiếc phao được quẳng khắp dòng sông.
Những cây nến được thắp khắp các lan can và trên cửa sổ của những căn nhà quay mặt ra sông, trên những mái nhà cao nhất và các ban công có thiết kế lạ mắt. Hàng nghìn người tới tham dự đều cảm thấy ngạc nhiên với công trình xếp nến này của ban tổ chức.
4 chiếc thuyền đua được sơn và trang trí bằng 4 màu khác nhau. Mỗi chiếc là biểu tượng đặc trưng của một sự kiện lịch sử có liên quan đến các quận của thành phố Pisa.
Phần phía Nam của thành phố là quận Saint Martin với màu trắng và đỏ, quận Saint Anthony với màu màu trắng và xanh lá. Phía bắc là 2 quận Saint Mary với màu trắng và xanh dương, quận Saint Francis chọn màu trắng và màu vàng.
Cuộc đua thuyền quan trọng sẽ diễn ra vào ngày 17/06. Khi đó, những tay đua phải chèo một mạch không nghỉ qua sông Arno với quãng đường là 1.500 mét, bắt đầu với hướng ngược dòng sông và kết thúc tại Palazzo Medici. Có hai con đường để đi tới đích và người chèo chính phải định hướng cho toàn bộ đội đua của mình về đích nhanh nhất.
Chèo thuyền theo dòng nước ngược có thể làm cho các tay đua phải nỗ lực nhiều hơn và cũng nhanh mất sức hơn. Ở những khúc cua, cuộc đua càng trở nên khốc liệt vì vậy, cơ hội thắng cuộc sẽ thuộc về đội nào khéo léo nhất.
Chiến thắng thuộc về đội có người chèo chính giật được ngọn cờ có tên là “paliotto”. Ba “paliotto” được đặt ở 3 nơi khác nhau. Trong đó có một lá cờ xanh dương, một là màu trắng và cuối cùng là cờ đỏ. Một cặp ngỗng non sẽ là giải thưởng cho tay chèo thuyền nào lấy được cả 3 ngọn cờ.
Việc giành những lá cờ này bắt nguồn từ lịch sử khi những thủy thủ Ý phải đấu tranh để giành lấy ngọn cờ từ tay binh lính hải quân Thổ Nhĩ Kì và nó được giữ ở Pisa cho đến ngày nay.
Lễ hội này được tổ chức lần đầu tiên St. Ranieri vào năm 1718 nhưng nó không được chấp nhận cho đến tận năm 1737, lễ hội đua thuyền mới được tiếp tục tổ chức. St. Ranieri trở thành hoạt động văn hóa thường niên từ năm 1935.
Lễ hội đua ngựa Palio – Italia
Thành phố Siena, Italia là nơi diễn ra một trong những ngày hội ấn tượng và được mong chờ nhất hành tinh – ngày hội đua ngựa Palio.
Bắt đầu từ năm 1644, ngày hội đua ngựa Palio được tổ chức hàng năm vào 2/7 và 16/8 giữa các quận của thành phố Siena nhằm tôn vinh Đức Mẹ đồng trinh. Cả thành phố có tất cả 17 quận nhưng sẽ chỉ có 10 quận được tham gia trong mỗi ngày hội, 7 quận chưa tham gia ngày hội trước và 3 quận may mắn sẽ tiếp tục tham gia. Mỗi quận tham gia với một ngựa và một người cưỡi.
Diễn ra tại Piazza de Campo - quảng trường trung tâm Siena, ngày hội Palio sẽ đưa bạn trở về thời trung cổ ở châu Âu với những kị sỹ ăn vận trang phục mang sắc màu và biểu tượng riêng của từng quận, cưỡi ngựa không thắng yên trên đường đua đầy cát bụi và sỏi đá.
Trên đường đua, các kị sỹ có thể bị hất văng khỏi ngựa của mình và chú ngựa nào cán đích trước tiên sẽ mang chiến thắng về cho quận đó. Nói một cách khác, người chiến thắng thực sự trong cuộc đua chính là các chú ngựa. Nhiệm vụ của các kị sỹ là bám chắc lưng ngựa và làm cho các chú ngựa khác tránh xa ngựa của mình.
Trước khi cuộc đua chính thức diễn ra vài ngày sẽ diễn ra 6 lần đua thử để ngựa quen với đường đua và đám đông. Lần đua thử đầu tiên diễn ra vào tối chọn ngựa (thường vào 29/06 hoặc 13/08) và lần cuối cùng diễn ra vào buổi sáng ngày đua chính thức. Những lần đua thử cũng thu hút sự chú ý của nhiều người.
Ngay từ sáng sớm, hàng ngàn người đã tập trung chật kín quảng trường Piazza để chứng kiến ngày hội có một không hai này. Trong ngày hội, trước khi diễn ra cuộc đua, mỗi quận sẽ có 17-18 người ăn vận trang phục thời trung cổ (ít hơn với những quận không tham gia) diễu hành xung quanh thành phố, và điểm đến cuối cùng là xung quanh quảng trường.
Cuộc đua chính thức diễn ra vào 7h hoặc 7h30 tối – một trong những đêm được mong chờ nhất của người dân thành phố Siena. Chỉ 3 vòng đua xung quanh quanh quảng trường, trong một thời gian rất ngắn nhưng la những giây phút căng thẳng, hồi hộp nhất và cuối cùng vỡ òa trong niềm vui chiến thắng.
Khi cuộc đua kết thúc, những người chiến thắng sẽ ùa vào đường đua, ôm hôn nhũng chú ngựa và những kị sỹ anh hùng của họ. Có những giọt nước mắt hạnh phúc lăn dài trên khuôn mặt, bao tháng ngày chuẩn bị cho những giây phút hạnh phúc ấy đã được đền bù xứng đáng.
Phần thưởng dành cho người thắng cuộc là một lá cờ Đức Mẹ với tên của người chiến thắng. Nhưng phần thưởng lớn nhất có lẽ là niềm hạnh phúc và vinh dự to lớn dành cho cả quận. Những bữa tiệc, những cuộc diễu hành khắp thành phố, ca hát, nhảy múa trong niềm hạnh phúc tột cùng diễn ra nhiều ngày sau đó.
Không chỉ là ngày hội lớn của riêng người dân Siena, Palio di Siena còn thu hút rất nhiều du khách từ khắp nơi trên nước Ý cũng như trên thế giới. Ai cũng mong muốn được một lần hòa mình trong bầu không khí sôi động của một trong những lễ hội độc đáo và hoành tráng nhất thế giới
Người Italia có một mối ràng buộc chặt chẽ với gia đình và nơi gia đình họ sinh sống. Không giống như các nước phương Tây khác (đặc biệt là Mỹ), thị trường bất động sản ở Italia không diễn ra sôi động vì ở đây đa số các gia đình tìm cách gìn giữ gia sản của cha ông mình để lại. Đối với họ, việc bán một ngôi nhà không chỉ đơn thuần là một cuộc giao dịch mà là sự chia tay với những kỷ niệm về một nơi nhiều thế hệ đã từng chung sống.
Gia đình của người Italia có thể được hiểu là một khái niệm thiêng liêng, một "cosa sacra". Nhưng người Italia không đề cao khái niệm hôn nhân và gia đình lãng mạn như chúng ta thường thấy trên phim ảnh Hollywood. Một điều khá thú vị là trong khi cả thế giới biết tới Italia là nơi chứng kiến chuyện tình lãng mạn của Romeo và Juliet (qua lời kể của một nhà văn người Anh William Shakespear), thì trên thực tế, người Italia tiến tới hôn nhân không phải hoàn toàn vì tình yêu. Đối với họ, hôn nhân là một sự cam kết, một bản hợp đồng thực sự. Một người đàn ông chọn một người phụ nữ về làm vợ vì cô ta tỏ ra quán xuyến và phù hợp với gia đình của mình.
Các bậc cha mẹ rât yêu con cái và thường thể hiện tình cảm của mình ở bất cứ đâu. Thậm chí, ngay cả những đứa trẻ xa lạ cũng nhận được tình cảm của người lớn nếu chúng dễ thương. Trong gia đình người Italia, trẻ em được bình đẳng, chúng được phép bày tỏ ý kiến của mình và được đối xử rất tốt.
Trẻ em Italia dường như rất thoải mái với cha mẹ, và khi đã khôn lớn, chúng luôn thừa nhận là giống cha mẹ với một niềm tự hào. Các bậc cha mẹ đặt rất nhiều hy vọng vào con cái, và họ sẵn sàng hy sinh tất cả mà không một lời kêu ca. Họ không muốn ép buộc hay khuyến khích con cái phải học những thứ như nhạc, vẽ,… từ nhỏ. Theo họ, chúng sẽ học vào những lúc thích hợp hơn nếu chúng yêu thích và không nên gò ép chúng trước khi chúng sẵn sàng.
Các bậc cha mẹ cũng mong con cái họ đạt được những gì mà họ không có, điều đó rất dễ dẫn đến tình trạng trẻ em rơi vào những thói hư tật xấu ngoài xã hội. Họ thích tổ chức những bữa tiệc cầu kỳ, tốn kém cho ngày sinh nhật hay ngày quan trọng nào đó trong cuộc đời đứa trẻ hoặc trong những ngày Lễ lớn. Nếu điều kiện cho phép, họ sẽ mời rất đông khách khứa đến dự tiệc để đứa trẻ được tha hồ nhận quà.
Tục "Tarasios" khi cô dâu đi lấy chồng
Người La Mã có một tập tục, phàm là cô dâu đi lấy chồng, mọi người phải vui vẻ hô to "Tarasios". Khi kết hôn, cô dâu không được tự ý bước qua ngưỡng cửa nhà chồng mà phải có một người khác cướp đi, và tóc của cô phải được gỡ ra bằng dùi.
Tương truyền, sau khi Romulus xây dựng thành La Mã, phần lớn đàn ông trong thành đều chưa vợ, mà người ngoại bang lại không đồng ý đưa con gái của họ đến nơi đây nên ông quyết định sử dụng cách lừa gạt. Ông tung tin rằng đã phát hiện đền thờ Cansus được chôn dưới đất, và quyết định cử hành nghi lễ chúc mừng lễ Cansus vào ngày 18/8.
Ngày hôm đó, người La Mã cử hành hiến tế và thi đấu, thành La Mã náo nhiệt vô cùng, rất nhiều người Sabin bị thu hút về đây. Ngay khi buổi lễ chúc mừng diễn ra đúng lúc náo nhiệt nhất, bất ngờ, Romulus đứng phắt dậy, cởi chiếc áo bào của mình, thanh niên La Mã được chuẩn bị từ trước lập tức rút kiếm, hô to xông ra, cướp đi các phụ nữ là người Sabin, khiến người Sabin và ngoại bang hoảng hốt bỏ chạy.
Trong lúc cướp đoạt, một số người địa vị thấp kém cướp được một thiếu nữ mặt đẹp như ngọc, miệng tươi như hoa, những người địa vị cao thấy vậy phát ghen, nói rằng cô gái đó phải thuộc về Tarasios – chàng trai trẻ tuổi có danh vọng và kiệt xuất. Lời nói này lập tức được tán thành, thế là họ vừa đi vừa hô to cái tên Tarasios để biểu thị lòng tôn kính. Sau khi kết hôn, Tarasios sống rất hạnh phúc, do đó, Tarasios trở thành khẩu hiệu người La Mã cần hô to khi kết hôn. Nhưng cũng có người nói, khẩu hiệu đó được hô cho cô dâu, ngụ ý nghĩa "Dệt vải", nhằm khích lệ sự lao động cần cù của cô dâu.
Sau khi sự kiện Romulus cưỡng hôn xảy ra, người Sabin và người La Mã bùng nổ chiến tranh. Nhưng phụ nữ Sabin đã quen thuộc với chồng mình, vì thế, vào giờ phút quan trọng nhất trong cuộc quyết chiến, một cảnh tượng kỳ lạ trong lịch sử chiến tranh đã xảy ra. Người phụ nữ Sabin bị người La Mã cưỡng đoạt đã bất chấp nguy hiểm, chạy thẳng ra chiến trường như bị ma ám, người xõa tóc, người ôm con, nhìn vào đống thi thể trên chiến trường khóc lóc thất thanh gọi tên chồng, tên cha, chạy qua chạy lại trước hai đội quân.
Cảnh tượng động lòng này khiến cho quân đội cả hai bên không thể cầm lòng, và thế là chủ động rút lui. Phụ nữ không ngại gươm đao, đứng giữa chiến tuyến khuyên giải, khẩn cầu người La Mã đừng chia rẽ vợ chồng, cha con ruột thịt. Và chiến tranh chấm dứt. Người La Mã và người Sabin là Tatios cùng nhau thống trị công xã. Sau khi Tatios qua đời, Rumulus thống trị công xã một mình, cho đến khi ông bị Mars đưa lên thiên đàng bằng chiến xa.
Đám cưới ở Italia
Tại các nhà thờ, vào ngày có lễ cưới sẽ treo những dải ruban lớn nhiều màu sắc. Đây là cách báo hỉ truyền thống tại Italia.
Cũng tại đám cưới Italia truyền thống, cặp vợ chồng mới cưới khi bước ra khỏi nhà thờ và đi tới quảng trường của thị trấn thì thường được tung hoa giấy và gạo lên người. Hoa giấy tượng trưng cho tiền bạc và một tương lai tốt lành vì vậy mà càng được rắc nhiều hoa giấy thì cặp vợ chồng mới cưới càng gặp nhiều điều tốt lành. Sau khi làm lễ tại nhà thờ cô dâu chú rể tới nơi tổ chức ăn mừng đám cưới.
Trong đám cưới Italia, bánh cưới thường có nhiều tầng với hai bức tượng nhỏ ở trên tượng trưng cho cô dâu chú rể. Mặt của hai bức tượng nhỏ này phải hướng ra phía quan khách tham dự đám cưới.
Một điều không thể thiếu trong những đám cưới Italia truyền thống là khi một vị khách nam nào đó đứng lên với cốc rượu trong tay hô to "chúc mừng cặp vợ chồng mới cưới". Ngay lập tức mọi người cùng vỗ tay và hàng trăm lời chúc mừng được tuôn ra. Và khi buổi lễ có vẻ giảm bớt không khí thì một người nào đó lại đứng lên và hô to "chúc mừng cặp vợ chồng mới cưới" và đám đông sẽ đáp lại bằng những tràng pháo tay và những lời chúc tụng. Tiếp đó, khi một người bất kỳ nào trong đám cưới (thường là nam) đứng lên nói "hôn nhau đi, chúng tôi muốn được thấy các bạn hôn". Thì sau đó cô dâu chú rể từ từ đứng dậy và hôn nhau.
Các đám cưới Italia thường diễn ra rất náo nhiệt, linh đình và các thực khách chỉ ra về khi họ cảm thấy không thể tự đi về nhà được và cần một người nào đó đưa họ về. Cô dâu và chú rể đi tới mỗi bàn của khách chào đón khách và sau đó nhẹ nhàng kín đáo rời bữa tiệc để đi hưởng tuần trăng mật và thậm chí không hề mở một gói quà nào. Họ hàng người thân của cô dâu chú rể vui vẻ chấp nhận điều đó và tiếp tục tiệc cưới.
Trang phục
Thường thì trang phục ở Italia có xu hướng chính thức cho cả nam và nữ, cả ở trong công việc và các trong tình huống xã hội. Hãy cố hết sức lựa chọn trang phục sao cho chúng vừa đẹp vừa có phong cách.
Các màu thường được sử dụng trong ăn mặc là màu sẫm đậm, nâu nhạt. Các màu sáng hơn thường được dùng cho các đồ cá nhân
Quần bò và giày thể thao trên đường là đồ thư giãn có thể chấp nhận được (đặc biệt là cho thanh niên), mặc dù trang phục này thường dành cho các môn thể dục và bãi biển. Cách ăn mặc này sẽ không được chấp nhận trong các bối cảnh công việc.
Mùa hè thường nóng và ẩm, trong khi mùa đông thường mát và ẩm ở miền Nam và có thể rất lạnh ở miền Bắc. Tuy nhiên, ngoại trừ những nơi có núi…
Văn hóa ẩm thực Italia
Mỳ Spaghetti |
Không chỉ nổi tiếng về phong cảnh, nền văn hóa lâu đời với các công trình kiến trúc, các tác phẩm nghệ thuật vĩ đại, đất nước Italia còn có nhiều món ăn, thức uống nổi tiếng thế giới.
Món ăn nổi tiếng nhất của Italia là mỳ Italia với hơn 400 loại khác nhau. Cũng có rất nhiều loại nước sốt khác nhau và chính điều đó làm cho món mỳ Italia khác với món mỳ ở nơi khác. Mỗi loại nước sốt, kem, cà chua, phô mai, thịt hay cá đều có công thức kết hợp với mỳ.
Món Pizza cũng là một món ăn rất nổi tiếng trong nghệ thuật ẩm thực của Italia. Hầu hết các món ăn tuyệt vời của Italia đều có đặc điểm chung nhất là có thể chuẩn bị rất nhanh chóng và kinh tế. Hầu như tất cả các món ăn Italia đều chú trọng đến rau, hyđrat-cacbon và hàm lượng mỡ động vật trong thức ăn thấp. Đặc biệt, bữa ăn sẽ trở nên tuyệt vời khi đi kèm với một chai vang đỏ của Italia.
Hai món ăn của Italia được nhiều người nhắc đến đó là bánh pizza và mì ống spaghetti. Theo người dân Italia, pizza có nghĩa là “điểm tròn”. Chiếc bánh tròn này ra đời tại tỉnh Naples, thuộc miền Nam nước Italia, vào thế kỷ XVIII. Lúc đầu, bánh pizza được bán trên các cửa hàng ven đường và có tên là pizzerie.
Pizza |
Ngoài ra, Italia còn nổi tiếng với mì spaghetti - một loại mì có hương vị rất đặc trưng, sợi mì thơm và dai. Mì ống luộc chín vừa phải, trộn với nước xốt cùng các loại gia vị khác. Spaghetti có ngon hay không phụ thuộc rất nhiều vào nước xốt. Nước xốt truyền thống được nấu từ thịt bò, cà chua, thêm ngò tây, phô mai… nên có hương vị rất đặc biệt.
Về thức uống, Italia có hai loại nổi tiếng là rượu và cà phê. Người Italia thường uống rượu nho trong các bữa ăn, nhất là bữa ăn tối. Đặc biệt, Italia đã đóng góp vào nền văn hóa ẩm thực thế giới một loại thức uống cực kỳ đặc sắc đó là cà phê.
Mỗi loại cà phê của Italia đều có hương vị riêng. Cà phê Espresso xuất hiện ở Italia vào năm 1930. Cà phê Espresso đơn giản là cà phê đen, thường được pha rất đậm, chủ yếu uống với đường, không pha thêm sữa. Còn cà phê Latte và Cappuccino đều uống với sữa tươi. Cà phê Latte là cà phê sữa, gồm sữa pha với Espresso. Loại cà phê này thường được uống vào lúc ăn sáng. Cà phê Latte rất ít khi được sữa sủi bọt kèm theo.
Cappuccino |
Riêng Cappuccino thì cầu kỳ hơn. Cappuccino được xem là một nét đặc trưng trong văn hóa ẩm thực của Italia. Một tách cà phê Cappuccino bao gồm ba phần chính: cà phê Espresso, sữa nóng và sữa sủi bọt. Khi uống Cappuccino, người ta thưởng thức được vị đắng của cà phê hòa tan với vị ngọt của sôcôla và vị béo của sữa. Trong tách cà phê Cappuccino, phần bọt sữa đặc biệt được chăm chút rất đẹp mắt. Để tăng thêm hương vị cho Cappuccino, người ta thường rải lên trên mặt ly một ít bột ca cao hay bột quế. Tách dùng để uống cà phê Cappuccino phải là tách bằng đá hoặc sứ. Cà phê Cappuccino chỉ ngon khi uống nóng. Hiện nay, cà phê Cappuccino đã trở thành loại nước uống nổi tiếng trên thế giới, được mọi người yêu thích.
Theo cinet
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét