Đoàn người và lạc đà vẫn lầm lũi đi giữa biển sa mạc, gió cát bắt đầu quất từng cơn thật mạnh vào đoàn lữ hành. Tôi hét to hỏi Tiểu Trương: “Bão cát à?”. Tiểu Trương vẫn giữ vai trò “hoa tiêu” đi đầu quay lại nói to: “Không, nếu bão cát thì anh không thể đi như thế được, chỉ là gió bình thường thôi!”
Đi trong sa mạc mới hơn ba giờ đồng hồ mà tôi có cảm tưởng dài như cả một ngày. Suốt chặng đường dài chẳng hề thấy một bóng người, một bóng cây, cho dù ẩn hiện từ phía đường chân trời. Dưới ánh nắng mặt trời, cả sa mạc như vàng cháy.Thỉnh thoảng người bạn đồng hành của tôi lại cho đoàn lữ hành dừng lại, anh ngó tới, ngó lui, tần ngần một hồi rồi mới thúc lạc đà đi tiếp. Anh nói: “Để xem bóng nắng ấy mà, phải biết mình đang đi theo hướng nào chứ!”. Trời đất! Anh không hề có bất cứ một thứ gì để định vị, tìm phương hướng giữa sa mạc mênh mông, cho dù đó là một cái la bàn be bé!
Quá hào hứng với chuyến đi, tôi đã phó thác cả mạng sống mình vào tay một người xa lạ! Lấy lại bình tĩnh, tôi gợi ý với anh: “Hay chúng ta theo dấu chân lạc đà để quay về lấy la bàn cho chắc ăn?”. Chuyện hệ trọng vậy mà anh nghe xong cười lớn: “Làm sao mà về! Chỉ cần chúng ta đi qua là gió cát đã lấp ngay dấu chân lạc đà rồi, không thể quay về được!”.
Dù đã chuẩn bị mỗi người hơn 2 lít nước cho chuyến đi nhưng không ngờ cái nóng đã làm lượng nước bị tiêu thụ quá nhanh. Chiếc bình toong chẳng còn giọt nước nào. Tôi lo lắng nhưng cố bình tĩnh để nhớ lại một số kiến thức về cách tồn tại giữa sa mạc mà tôi đã từng đọc qua: “Những nơi có thể có nước là nơi có cỏ hay lau sậy mọc, chỗ có đất ẩm ướt... Nếu thấy cây chà là thì sẽ có nước ở độ sâu khoảng 1m dưới đất. Gặp cây cỏ mặn thì chắc chắn sẽ có nước trong khoảng 2m...”. Nhưng than ôi, nhìn quanh chỉ thấy toàn cát và cát…
Trời bắt đầu sụp tối, ánh nắng tắt dần, tôi nhìn đồng hồ đeo tay: 8 giờ ! Cũng may là ở vùng sa mạc này hoàng hôn đến rất trễ, nếu không chúng tôi gay go từ lâu rồi. Theo kế hoạch ban đầu, sau bảy giờ vượt sa mạc đoàn lữ hành đã đến được thảo nguyên Thông Hồ - một ốc đảo đầu tiên giữa sa mạc để trú đêm. Nhưng nhìn quanh cát vẫn mênh mông tít tắp. Có lẽ do chúng tôi liên tục dừng chân nghỉ ngơi quá lâu chăng, hay tại gió ngược nên tốc độ đi chậm lại?... Trong đầu tôi cứ đưa ra thật nhiều lý do để cố trấn an về một tình huống xấu nhất. Anh Kim Sơn - người bạn đồng hành gan góc của tôi - cũng căng thẳng ra mặt và im lặng suốt.
Trời đã tối hẳn. Bốn bề mù mịt, gió vẫn chưa ngừng thổi, đàn lạc đà vẫn kiên nhẫn cất từng bước chân giữa sa mạc, đoàn lữ hành rã rời, kiệt sức lầm lũi bước trong đêm... Đầu tôi cứ nghĩ vẩn vơ... Bỗng nghe tiếng anh bạn dẫn đường la lên: “Đến rồi!”. Dõi theo hướng đèn pin, tôi thấy một đốm lửa nhỏ leo lét ở tít đằng xa. Chưa kịp mừng thì tôi lại lo lắng: “Liệu có phải là hiện tượng ảo ảnh thường thấy trên sa mạc không?”.
Những câu chuyện về hiện tượng ảo ảnh trong sa mạc cứ thế ùa về, khi đã kiệt sức những người lạc lối trong sa mạc thường hay thấy trước mắt họ là những hồ nước mát lạnh, những ngôi làng sung túc, những rừng cây ăn trái ngọt ngào, họ cố chạy, cố lết đến nhưng cái “ốc đảo” kia ngày càng lùi xa hoặc biến mất, cát vẫn hoàn cát mênh mông, người ta đã chết dần chết mòn giữa hi vọng và tuyệt vọng, một cái chết thật kinh khủng!... Tôi quay sang anh thì thấy anh cũng reo lên: “Đúng rồi! Có đốm lửa, có ngôi nhà nữa kìa”. Đốm lửa không rời xa và ngày một rõ dần, lớn dần. Đúng rồi, một ngôi nhà từ từ hiện ra trước mắt...
... Đặt lưng xuống chiếc giường rơm, đồng hồ đã chỉ quá nửa đêm. Tôi bây giờ chỉ còn lại một tấm thân rã rời, một đôi chân như tê dại mất cảm giác, khổ sở nhất là cái “bàn tọa” cứ đụng nhẹ là đau vì phải “nảy tưng tưng” giữa hai bướu của con lạc đà suốt cả một ngày. Tối đó tôi phải nằm sấp mới ngủ được!
Tong Gu Nao là ngôi làng nhỏ, chỉ vài trăm người Mông Cổ sinh sống. Khi chúng tôi đến, cả làng vắng hoe, chỉ có vài con lừa, con dê đang thong thả gặm cỏ, thấy người lạ đến chúng be be toáng cả lên. Một cụ bà người Mông Cổ đội nón trắng theo truyền thống đạo Hồi đang cho dê ăn, ngẩng đầu lên nhìn chúng tôi lạ lẫm.
Người hướng dẫn đốt tẩu thuốc rồi trịnh trọng đưa mời. Cụ bà hút vài hơi và trả chiếc tẩu lại người mời, hai người nhìn nhau cười nói ra chiều thân thiện lắm. Người dẫn đường giải thích: “Đó là cách thức làm quen của người Mông Cổ. Họ đặc biệt coi trọng cách mời thuốc. Hai người cùng hút chung một tẩu thuốc là biểu thị chúc phúc lẫn nhau. Đừng dại dâng tẩu thuốc đã tắt lửa, đó là có ý chửi mắng họ, có thể dẫn đến đổ máu”.
Cụ bà Mông Cổ cho biết người trong làng đã đi cả tháng rồi. Trong làng chỉ còn người già thôi. Mỗi khi mùa hè đến, dân du mục thường dẫn theo hàng đàn lạc đà, dê, ngựa đi thật xa tìm nguồn nước, tìm những thảm cỏ xanh mới làm thức ăn cho chúng. Họ cứ đi, đi mãi đến khi mùa đông mới quay trở về. Mà thật ra còn có lý do khác khiến làng Tong Gu Nao vắng tanh đến rợn người này.
Rất nhiều người ra đi để kiếm sống và không quay về nữa. Họ đi vì làng nghèo quá. Ngoài vài cái nhà gạch cũ kỹ, hầu hết đều là nhà làm bằng đất nện và bằng... phân lạc đà! Một cô gái đang thả gàu xuống cái giếng gần cạn múc nước, cô buồn bã nói: “Trước đây làng cũng đông vui lắm, nhưng nước càng ngày càng thiếu, đồng cỏ đã biến mất nhiều, xung quanh bây giờ toàn cát là cát. Vùng này sắp biến thành sa mạc rồi. Sớm muộn gì chúng tôi cũng phải ra đi”.
Những dự định đầy háo hức của chúng tôi về cái cảnh được sống, được ăn, được cùng phi ngựa với người Mông Cổ trên thảo nguyên bao la giờ đã tan biến. Người Mông Cổ ở sa mạc Gobi bây giờ đang dần kiệt quệ, làn sóng thị trường đã len lỏi vào tận ruột gan của sa mạc. Trên đường về, cách Tong Gu Nao không xa lắm, tôi bắt gặp hàng đàn gia súc đang nhởn nhơ gặm cỏ trên cánh đồng cỏ xanh mướt. “Của người Hán đấy, người Mông Cổ làm gì có vốn liếng mà tạo dựng đàn gia súc lớn như vậy!” - người dẫn đường nói.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét