Trung Quốc có rất
nhiều thành phố vốn là kinh đô cổ xưa. Nay người ta phân loại và xếp
hạng có bảy kinh đô lớn, gọi là Thất đại cổ đô (Trung Quốc dùng từ cổ đô
chứ không gọi là cố đô như ở Việt Nam).
Đó
là Bắc Kinh, Nam Kinh, Hàng Châu, Tây An, Lạc Dương, An Dương, Khai
Phong, riêng tỉnh Hà Nam có đến ba cổ đô là Lạc Dương, An Dương và Khai
Phong. Từ thành phố An Dương, chúng tôi đã lần lượt đi thăm sáu cổ đô
của Trung Quốc, trong đó cổ đô Nam Kinh là nơi cả đoàn đi thăm gần đây
nhất.
Lịch sử hai mươi lăm thế kỷ
|
Nam Kinh hiện đại |
Nam Kinh có phía bắc nhìn ra sông Trường Giang, ba phía đông, tây và
nam được bao bọc bởi con sông Tần Hoài. Thành phố sáu triệu dân này nằm
trong khu vực châu thổ ở hạ lưu sông Trường Giang, được gọi là Trường
Giang tam giác châu, bao gồm thành phố Thượng Hải, một phần tỉnh Giang
Tô và một phần tỉnh Triết Giang. Đây là vùng đồng bằng trù phú nhất của
Trung Quốc, kinh tế phát triển mạnh, mức sống người dân cao. Chúng
tôi đến Nam Kinh vào một buổi sáng cuối xuân. Ấn tượng đầu tiên là các
đường phố rất rộng, đường nào cũng rợp cây cao bóng mát, nhà cửa hai bên
đường đều ẩn dưới bóng cây.
Cô Trần, hướng dẫn viên du lịch người
Trung Quốc cho biết rằng Nam Kinh là trung tâm kinh tế, chính trị của
tỉnh Giang Tô, nhưng trước hết là một thành phố văn hóa có lịch sử lâu
đời, do đó chính quyền đã cố gắng bảo vệ môi trường thật tốt. Theo chúng
tôi, Nam Kinh đúng là một thành phố xanh và sạch.
Từ thời chiến
quốc (475-211 trước Công nguyên), nhiều nước chư hầu đã giành giật nhau
mảnh đất thuộc Nam Kinh ngày nay. Nước Sở đã từng cai trị vùng này và
đặt tên là Kim Lăng.
|
Một cây cầu của thành phố |
Khi
nó thuộc về nước Việt của nhà vua Câu Tiễn, quan thượng đại phu Phạm
Lãi đã cho xây đắp tường thành ở bờ nam sông Tần Hoài. Nếu tính từ đó
đến nay thì Nam Kinh đã có 2.500 năm lịch sử. Về sau, từ thế
kỷ III đến cuối thế kỷ thứ VI, thành phố này lần lượt trở thành kinh đô
của sáu triều đại: Đông Ngô (thời Tam Quốc), Đông Tấn, Tống, Tề, Lương,
Trần.
Sau đó, từ thế kỷ VII thêm bốn triều đại Nam Đường, Minh,
Thái Bình Thiên Quốc và sau cùng là nước Trung Hoa Dân Quốc sau cách
mạng Tân Hợi (1911) cũng lần lượt đóng đô tại đây. Do đó, người ta còn
gọi Nam Kinh là Thập triều cổ đô.
Thập Lý Tần Hoài
|
Phố cổ Nam Kinh |
Nam
Kinh có rất nhiều di tích lịch sử lâu đời, có giá trị cao về văn hóa
cũng như về kiến trúc. Trong các di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh
của Nam Kinh, nổi lên một khu vực gọi là Tần Hoài phong quang đới (dãy
phong cảnh ven sông Tần Hoài). Đây là một khu phố xá sầm uất,
nằm ở phía nam thành cổ, chạy dài 4 - 5km ven sông Tần Hoài, một con
sông nhỏ xuyên qua thành phố Nam Kinh rồi chảy ra Trường Giang.
Trải
qua hàng nghìn năm lịch sử, đây là chốn phồn hoa đô hội, là nơi cư trú
của nhiều danh gia vọng tộc và là nơi gặp gỡ của tao nhân mặc khách, thế
nên cao lâu tửu điếm, lầu son gác tía nối nhau san sát. Đời nhà Nguyên,
cái tên Thập Lý Tần Hoài (mười dặm Tần Hoài) biểu tượng cho sự phồn
thịnh của Nam Kinh.
Trung tâm của khu vực này là Phu Tử Miếu thờ
Khổng Tử. Giờ đây, toàn bộ khu vực là nơi buôn bán sầm uất, đèn lồng đỏ
treo khắp nơi, khách tham quan mua sắm đều đi bộ, một số phố còn giữ lại
lòng đường lát đá từ đời xưa.
Tình cờ đến Ngõ áo đen
Thơ
thẩn bên sông Tần Hoài, chúng tôi rời quảng trường rộng lớn trước miếu
Khổng Tử, qua chiếc cầu Văn Đức Kiều, đi bộ thêm vài chục mét, đến một
phố nhỏ có treo bảng đề Ô Y hạng. Các con đường ở khu vực này đều gọi là
hạng (ngõ) vì nó đều bé nhỏ.
|
Một điểm tham quan ở Nam Kinh |
Ô
Y hạng tuy hẹp nhưng người đi lại rất đông, hàng quán nối liền san sát.
Tôi đi vào trong phố, bỗng thấy trước mặt một dinh thự kiến trúc theo
phong cách cổ xưa, trước cổng cổ gắn tấm biển Vương Tạ cố cư. Tôi ngẩn
người ra, suy nghĩ một lúc mới nhớ đến bài thơ của Quách Tấn Đêm thu
nghe quạ kêu, trong đó có nhắc đến Ô Y hạng. Quách Tấn
(1910-1992) thuộc thế hệ thi nhân thời tiền chiến với phong trào Thơ
mới, đánh dấu sự phát triển của thi ca Việt Nam theo hướng hiện đại hóa.
Đêm thu nghe quạ kêu là bài thơ nổi tiếng được ông sáng tác năm 1939, được in trong tập thơ
Mùa cổ điển trong đó tất cả các bài thơ đều làm theo thể Đường luật, thất ngôn bát cú. Trong bài thơ
Đêm thu nghe quạ kêu, thi sĩ Quách Tấn mở đầu bằng hai câu:
Từ Ô Y hạng rủ rê sang, Bóng lẫn đêm thâu tiếng rộn ràng.
Ô Y hạng có nghĩa là Ngõ áo đen, Quách Tấn mượn điển tích này từ bài thơ
Ô Y hạng của Lưu Vũ Tích đời nhà Đường. Cái tên Ô Y hạng có từ thời Đông Tấn (thế kỷ thứ IV).
|
Bài thơ Ô Y Hạng của Lưu Vũ Tích |
Khi
đó, Nam Kinh là kinh đô của triều vua này và có tên là Kiến Nghiệp. Tại
một ngõ ở đây, có hai gia tộc lớn cư trú, đó là dòng họ Vương Đạo và Tạ
An, đều là những quan to trong triều. Người trong hai gia tộc thường
mặc áo đen, do đó người ta gọi cái ngõ này là Ô Y hạng (ngõ áo đen).Ô
Y hạng chỉ nổi tiếng về sau, khi thi nhân đời Đường là Lưu Vũ Tích
(772-842) làm bài thơ cùng tên, nói lên nỗi cảm hoài trước cảnh biến đổi
mau chóng qua thời gian, nơi lầu son gác tía xưa kia, bây giờ chỉ còn
lại những phế tích hoang tàn. Toàn bộ bài thơ chỉ bốn câu nhưng được xem
là một tuyệt tác trong Đường thi.
Chu Tước kiều biên dã thảo
hoa, Ô Y hạng khẩu tịch dường tà, Cựu thời Vương, Tạ đường tiền yến, Phi
nhập tầm thường bách tính gia Bản dịch của Trần Trọng San như sau:
Chu Tước, bên cầu cỏ trổ hoa,
Cửa Ô Y hạng, ánh dương tà,
Xưa kia én đậu lầu Vương Tạ,
Nay tới dân gian lượn mái nhà.
Đến
đời Nam Tống (thế kỷ thứ XII-XIII), trên nền cũ của dinh thự nhà họ
Vương Tạ, người ta xây dựng một ngôi nhà có tên Lai yến đường, lấy ý
trong câu thơ thứ ba của Lưu Vũ Tích. Trải qua nhiều lần trùng tu, ngôi
nhà này vẫn giữ được đường nét kiến trúc cổ, trông thật u tịch tao nhã,
gợi cho du khách nỗi niềm hoài cổ lâng lâng.
|
Kiến trúc cổ của thành phố |
Ở
giữa đại sảnh đường có treo hai bức chân dung của Vương Đạo và Tạ An.
Người Trung Quốc từ các tỉnh khác đến Nam Kinh đều kéo đến đây rất đông
với tấm lòng ngưỡng mộ hai danh tướng đời Đông Tấn mà tên tuổi được lưu
danh trong lịch sử.Bước ra khỏi cổng Lai yến đường, chúng tôi
trở lại thế giới đương đại với hai bên ngõ là quán xá nhộn nhịp, du
khách đi lại mua sắm rất đông. Thật đúng như Lưu Vũ Tích đã mô tả, chim
én bây giờ đã từ bỏ lầu son gác tía để bay vào mái nhà của những người
dân bình thường.
TRẦN VĨNH AN/DNSGCT
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét