Một góc nhìn thú vị về hòn đảo "toàn tượng đá" với thổ dân bản địa, núi lửa, biển xanh cùng hồ nước tuyệt đẹp.
Nằm lẻ loi giữa Thái bình Dương, đảo Phục Sinh từng có thời xanh rờn bóng cọ; các cư dân ở đây có chữ viết riêng và những tượng đá khổng lồ. Nhưng ngày nay nó chỉ còn là một hòn đảo trơ trụi đá…
Tọa lạc cách Chile khoảng 3.600km về phía Tây và 2.075km phía Đông của đảo Pitcairn, đảo Phục Sinh được coi là một trong những hòn đảo cô lập nhất thế giới. |
Nhà thám hiểm người người Hà Lan - Jakob Roggeveen đã tình cờ phát hiện ra đảo trong ngày Chủ Nhật - Lễ Phục Sinh năm 1722. Khi đặt chân lên đảo, mọi người đều rất ngạc nhiên, sửng sốt trước sự trơ trụi cây lá trên đảo. |
Kể từ ngày ấy, hòn đảo 170km vuông xinh xắn này mang tên chính thức trên hải đồ quốc tế là đảo Phục Sinh. Đặc biệt, nơi đây không một bóng người nhưng lại có những tượng đá đứng sừng sững nhìn ra khơi. |
Quanh bờ biển của đảo Phục Sinh có gần 1.000 tượng đá rải rác, mỗi bức tượng cao từ 7 - 10m, nặng gần 90 tấn, đứng sừng sững, được tạc từ loại tro núi lửa, rất cứng. Những tượng này được thổ dân bản địa gọi tên là “Moai”. |
Một số tượng có một vầng nham thạch đỏ hình chiếc mũ. “Chiếc mũ đá” này tượng trưng cho quyền lực, địa vị cao trong xã hội thời đó. |
Đào sâu dưới vài chân tượng, các nhà khoa học đã tìm thấy một số cơ quan và đường hầm chứa nhiều đồ gốm, các hạt giống và dụng cụ làm nông. |
Có rất nhiều giả thuyết về việc ai đã di chuyển các tượng đá ra bờ biển. Một số người cho rằng, các tượng đá này có nguồn gốc từ những người ngoài hành tinh. |
Một số khác giải thích theo các nguyên tắc cơ học như người xưa đã sử dụng ròng rọc, đòn bẩy hay mặt phẳng lăn để di chuyển các bức tượng. Tuy nhiên, giả thuyết này cũng gây nhiều tranh cãi. |
Rapanui là tên gọi của những thổ dân bản địa trên đảo. Hiện nay, họ chiếm 60% dân số trên đảo, đa phần nói tiếng Tây Ban Nha, một số ít sử dụng tiếng thổ dân cổ. Theo điều tra, cư dân Rapanui trên đảo là 3.304 người, hầu hết tập chung ở phía Tây của đảo. |
Không chỉ là một địa điểm thú vị với các nhà khảo cổ, đảo Phục Sinh ngày nay có sức hấp dẫn đặc biệt với các khách du lịch bởi văn hóa truyền thống của cư dân nơi đây.
|
Hòn đảo này có địa hình khá đặc biệt, với các bãi cát trắng dài cùng làn nước trong xanh ngay sát mép thảm thực vật đa dạng. |
Trên đảo có vô số các hang động, mái vòm, vách đá… Đây thực sự là một nơi lý tưởng cho những người thích phiêu lưu, thám hiểm. |
Đảo còn có một hệ thống san hô dày đặc, vì thế, số lượng các loài cá ở đây nhiều và vô cùng phong phú. Những người đam mê câu cá có thể sắp xếp trực tiếp với ngư dân tại địa phương để được dẫn đến các bờ câu chuyên nghiệp hoặc thưởng cho mình một chuyến thám hiểm xa bờ. |
Ở dưới đáy biển, người ta còn tìm thấy một bức tượng đá mặt người khổng lồ. Sự hiện diện kỳ bí của nó ở nơi sinh sống của các loài cá đã kích thích sự tò mò của các nhà thám hiểm. Rất nhiều nhà làm phim Holywood cũng đã đưa bức tượng này vào trong phim ảnh. |
Có 3 ngọn núi lửa đã ngừng hoạt động ở trên đảo. Chúng được hình thành cách đây khoảng 500.000 năm trước. Giờ đây, chúng trở thành các hồ thiên nhiên khổng lồ, kỳ ảo và vô cùng tuyệt đẹp. |
Đảo Phục Sinh, bí ẩn chưa có lời đáp
Câu hỏi gây tranh cãi nhất vẫn là: Những bức tượng kì lạ ở đây là công trình của người trái đất hay... người ngoài hành tinh?
Đảo Phục Sinh (theo tiếng bản địa là Rapa Nui) là một hòn đảo nằm cô lập ở giữa phía Nam Thái Bình Dương thuộc địa phận đất nước Chile. Sở dĩ đảo có cái tên là "Phục Sinh" là bởi nó đã được thuyền trưởng người Hà Lan-Roggeveen phát hiện ra đúng trong ngày Lễ Phục Sinh vào năm 1722. Đảo Phục Sinh nổi tiếng không chỉ bởi vẻ đẹp tự nhiên hoang sơ của nó mà còn bởi những câu chuyện bí ẩn liên quan đến những bức tượng Moai hay là ngôn ngữ Rongorongo mà đến nay vẫn chưa có lời giải đáp.
Vị trí Đảo Phục Sinh trên bản đồ.
Những cư dân sống trên đảo Phục Sinh đã sáng tạo hệ thống chữ viết riêng- Rongorongo, khác xa so với các hệ thống chữ viết trên thế giới. Đến nay các nhà ngôn ngữ học vẫn chưa thể nào có thể giải mã được hết. Một điều đáng ngạc nhiên nữa là hầu hết các cư dân trên các hòn đảo khác thuộc Thái Bình Dương thậm chí đều không biết chữ, và kể cả những thổ dân da đỏ cũng không biết viết.
Vậy thì ai đã dạy những người dân trên đảo Phục Sinh biết viết, hay họ tự phát triển hệ thống chữ viết riêng của mình? Cần phải nhớ rằng chữ viết được sáng tạo ra lần đầu tiên ở châu Á chỉ vài ngàn năm trước công nguyên.
Cư dân trên đảo có hệ thống chữ viết riêng.
Nhưng Rongorongo chỉ là một trong vô số câu đố bí hiểm trên đảo Phục Sinh. Một ví dụ điển hình khác đó là gần 900 bức tượng khổng lồ, hay còn gọi là "moai", trong đó có những bức cao tới 10 mét nặng 82 tấn, tạc từ đá núi lửa. Ai đã xây những bức tượng này và họ đã đến đây như thế nào? Không ai biết được câu trả lời chính xác, nhưng có nhiều người đang đi tìm câu trả lời đó. Thậm chí, có người còn cho rằng, người ngoài trái đất đã dựng lên những bức tượng này và rất nhiều giả thuyết khác nữa.
Tượng trên đảo Phục Sinh có chiều cao thay đổi từ 2 m đến 10 m. Ban đầu, tượng được đặt lên các tấm móng hành lễ (hiện còn khoảng 250-300 tấm), còn gọi là "ahu", vòng quanh bờ biển của đảo.
Tượng lớn nhất đặt thành công là tượng Paro nặng 82 tấn. Tượng lớn nhất trong tất cả các tượng, tên là ElGigante (Người khổng lồ) dài 20 m, nặng khoảng 270 tấn, vẫn còn bỏ lại tại mỏ đá Rano Raraku quarry. Mỏ đá này còn 394 tượng bỏ phế.
|
Những bức tượng Moai khổng lồ trên đảo Phục Sinh
Tuy vậy, các nhà khảo cổ lại cho rằng những bức tượng này được đẽo từ mỏm cao nhất của thành của một ngọn núi lửa trên đảo. Sau khi đẽo xong một bức tượng, có thể nó đã được lăn hoặc được kéo xuống chân núi lửa. Sau đó, người ta sẽ dựng nó đứng thẳng lên và dây thừng được buộc quanh thân bức tượng. Bằng cách sử dụng hệ thống ròng rọc, bức tượng được di chuyển đến vị trí định trước.
Những sợi dây thừng được quấn quanh bức tượng hoạt động như một pu-ly truyền động. Một nhóm khoảng 30 người đàn ông sẽ kéo một đầu dây, kéo một mặt của bức tượng tiến lên phía trước. Bằng cách này, một mặt của bức tượng có thể đi được vài bước chân mỗi lần kéo. Sau đó, quá trình lại được làm ngược lại, mặt kia của bức tượng sẽ được làm như mặt trước đó đã làm, và cứ như vậy… phải đến vài tháng, một bức tượng mới được di chuyển vài dặm xuống đến bờ biển.
Phải mất vài tháng để kéo được những bức tượng này ra bờ biển.
Các vết phấn hoa sót lại cho thấy rằng ngày xưa từng có giống cọ Jubaea cao hơn 30m mọc trên đảo, rất thích hợp để làm những chiếc dây thừng bền chắc và cho rằng Phục Sinh cũng từng là một hòn đảo cây cối rất tươi tốt. Cũng từ đó có ý kiến cho rằng, do chính con người nơi đây đã tàn phá thảm thực vật trên đảo, gây ra một thảm họa sinh thái, và đó cũng chính là một trong những nguyên nhân chính gây ra thảm hỏa diệt vong tại nơi đây.
Trong cuốn "Tại sao các xã hội sống sót hay diệt vong", nhà sinh học tiến hóa Mỹ Jared Diamond thuật lại một tiến trình giả định: người Maya đốt rừng làm rẫy trồng ngô, khiến đất đồi bị mưa bào mòn, dẫn đến hạn hán, kết quả là nền văn minh Maya tự phá nguồn sống của mình, dẫn đến bị diệt vong. Cũng vì lý do tương tự mà người Viking trên đảo Greenland mất tích trong lịch sử.
Nguyên nhân nào dẫn đến sự diệt vong trên Đảo Phục Sinh?
Lý thuyết của Diamond nghe chừng có vẻ khá lọt tai. Tuy nhiên, nó có một điểm yếu: người Polynesia không đến đảo vào khoảng 800 năm sau Công lịch như vẫn được truyền tụng, mà tận những 400 năm sau đó – theo những phân tích đồng vị phóng xạ khá chính xác. Có nghĩa là kết cục đau buồn của văn hóa Rapa Nui chỉ diễn ra trong vòng 150 năm. Vậy liệu trong vòng 150 năm, con người có thể biến một hòn đảo xanh tươi khá rộng lớn so với số cư dân ít ỏi thời ấy thành một hoang đảo khô cằn như vậy được không? Câu trả lời có lẽ là không.
Song ngay cả khi hoạt động phá rừng của người Polynesia không phải là nguyên nhân duy nhất khiến họ diệt vong, thì họ cũng không hề “trắng án” hoàn toàn: Bởi lẽ họ đã mang lên đảo này một đội quân phá rừng cọ còn ghê gớm hơn họ gấp hàng trăm lần: đó là… chuột!
Một nhóm nhà khoa học dưới sự chỉ đạo của ông Terry L. Hunt từ ĐH Hawaii đã đưa ra giả thuyết này vì phát hiện ra các quả cọ ẩn trong lớp trầm tích ở bờ biển cho thấy chúng đều bị gặm nhấm bởi chuột. Theo nhóm khoa học trên, người Polynesia khi đến đảo đã đem theo giống chuột Thái Bình Dương (rattus exulans) trên thuyền.
Chúng tìm thấy ở đảo Phục Sinh một điều kiện sinh sôi nảy nở như thiên đường: Ước tính đến năm 1200 sau Công lịch, trên đảo sẽ có chừng khoảng 2-3 triệu con chuột. Chúng đã gặm sạch các quả cọ, làm cho chúng không còn để mầm cọ phát triển, và sẽ khiến cho quá trình hủy diệt các cánh rừng cọ trên đảo diễn ra nhanh hơn.
Đảo Phục Sinh vẫn sẽ mãi là những bí ẩn?
Tuy nhiên những lập luận đó vẫn chỉ dừng lại ở những giả thuyết, và vẫn chưa có những bằng chứng xác thực cụ thể nào . Và vì lẽ đó mà có lẽ Đảo Phục Sinh vẫn tiếp tục sẽ là một trong những bí ẩn lớn nhất của thế giới mà con người chưa thể khám phá nổi. Ngày nay, những tượng Moai vẫn đứng sừng sững như thách thức các nhà khoa học.
Vẻ đẹp hoang dã của phụ nữ trên đảo Phục Sinh
Bộ tộc này chỉ có 1.000 thành viên, nhưng du khách có thể ngắm mỏi mắt người đẹp, bởi hầu hết phụ nữ Rapa Nui đều rất đẹp.
Nhắc đến đảo Phục Sinh, còn gọi là đảo Rapa Nui, nhiều người biết đó là hòn đảo kỳ thú với những tượng đá khổng lồ, bí ẩn nằm giữa biển khơi.
Nhưng chỉ những người đã từng đến hòn đảo đó, mới biết rằng, ngoài những tượng đá bí ẩn khổng lồ, thì hòn đảo còn có sức hấp dẫn đặc biệt khác, đó là những thiếu nữ vô cùng xinh đẹp của bộ tộc Rapa Nui.
Một số nhà khoa học tin rằng, bộ tộc Rapa Nui vốn là những người Polynesia. Theo truyền thuyết, Hotu Matu'a là người định cư đầu tiên và là ariki mau

Hotu Matu'a và nhóm người đi cùng ông trên hai chiếc xuồng, là những người Polynesia từ vùng đất huyền thoại Hiva, đổ bộ vào vùng bãi biển Anakena và đã tỏa ra sinh sống trên khắp đảo này.

Con cháu của họ đã phân chia thành các thị tộc, và họ đều nhận mình là hậu duệ của các con trai ông.

Nhiều thế hệ đã sống trên 1.000 năm tại vùng đảo quê hương của họ trong sự cô lập với thế giới bên ngoài tại rìa phía Nam của tam giác Polynesia.

Một số nhà khoa học cho rằng đảo Phục Sinh đã không có người ở mãi cho tới tận khoảng năm 700-800. Kết luận này dựa vào tính toán ngôn ngữ niên đại học và dựa vào 3 niên đại cacbon phóng xạ từ các mẫu than củi.

Nhà dân tộc học Thor Heyerdahl người Na Uy đã chỉ ra nhiều nét tương đồng văn hóa giữa đảo Phục Sinh và các nền văn hóa thổ dân Nam Mỹ mà ông cho rằng có thể phát sinh từ một số người định cư đến từ phía lục địa.

Dù có nguồn gốc từ đâu chăng nữa, thì bộ tộc Rapa Nui vẫn vô cùng khác biệt, đặc trưng, bởi họ đã sinh sống cả ngàn năm trên hoang đảo giữa đại dương bao la.

Giống như các bộ tộc khác, người Rapa Nui cũng có những phong tục, tập quán đặc biệt, được gìn giữ từ hàng ngàn năm nay.

Trong vô số những nghi lễ văn hóa, thì lễ hội Tapati là quan trọng nhất. Lễ hội này được tổ chức hàng năm, vào cuối tháng Giêng và đầu tháng 2.

Lễ hội kéo dài 2 tuần để giới thiệu truyền thống văn hóa, giới thiệu những di sản Rapa Nui với cộng đồng thế giới. Đây là sự kiện thu hút đông đảo khách du lịch đến với đảo Phục Sinh.

Du khách khắp thế giới đổ ra đảo Phục Sinh không chỉ để chiêm ngưỡng, khám phá những tượng đá bí ẩn không lồ, mà còn để được hòa mình vào sinh hoạt tín ngưỡng của người Rapa Nui.

Điều đặc biệt, là du khách được thoải mái ngắm nhìn, chụp ảnh kỷ niệm, trò chuyện với những cô gái xinh đẹp, chỉ mặc chút vải che thân, thậm chí ở trần của bộ tộc Rapa Nui.

Mặc dù chỉ là bộ tộc ít người, song các cô gái bộ tộc Rapa Nui đều có cơ thể hoàn mỹ, không kém gì người mẫu, hoa hậu của thế giới hiện đại.

Các cô gái xinh đẹp, cùng các chàng trai bộ tộc sẽ mặc những trang phục truyền thống, hoặc ở trần. Họ trang trí những nét vẽ trên mặt, trên cơ thể và đội trên đầu những chiếc mũ có gắn lông vũ.

Trong vô số tiết mục của lễ hội, thì hấp dẫn nhất là tiết mục điêu khắc, thể hiện sự tài tình của những người đàn ông trên đảo, đã từng sáng tạo ra những tượng đá khổng lồ.

Hấp dẫn không kém là cuộc thi khiêu vũ đầy mê đắm của các thiếu nữ trong bộ lạc. Các vũ công chơi nhạc hòa mình vào những vũ điệu cuồng say.

Theo các nhà khoa học, xưa kia, dân cư bộ tộc Rapa Nui trên đảo rất đông, nền văn hóa phát triển rực rỡ, nên hoạt động lễ hội diễn ra rất sôi động, số lượng người đẹp cũng vô cùng đông đúc.

Tuy nhiên, vào giữa thế kỷ thứ XIX, dân số trên đảo bị thu hẹp chỉ còn khoảng 4.000 người.

Sau đó, chỉ trong vòng 20 năm, chế độ nô lệ và bệnh tật mà người phương Tây đem tới càng làm dân số đảo giảm không phanh, chỉ còn lại 111 người vào năm 1877.

Khi đảo Phục Sinh được sát nhập vào Chile năm 1888, số lượng bộ tộc Rapa Nui dần được khôi phục.

Hiện nay, trên đảo, bộ tộc Rapa Nui có khoảng 1000 thành viên. Với số lượng dân cư ít như vậy, nhưng du khách có thể ngắm mỏi mắt người đẹp, bởi hầu hết phụ nữ Rapa Nui đều rất đẹp.
VTC News
Nhắc đến đảo Phục Sinh, còn gọi là đảo Rapa Nui, nhiều người biết đó là hòn đảo kỳ thú với những tượng đá khổng lồ, bí ẩn nằm giữa biển khơi.
Nhưng chỉ những người đã từng đến hòn đảo đó, mới biết rằng, ngoài những tượng đá bí ẩn khổng lồ, thì hòn đảo còn có sức hấp dẫn đặc biệt khác, đó là những thiếu nữ vô cùng xinh đẹp của bộ tộc Rapa Nui.
Một số nhà khoa học tin rằng, bộ tộc Rapa Nui vốn là những người Polynesia. Theo truyền thuyết, Hotu Matu'a là người định cư đầu tiên và là ariki mau
Hotu Matu'a và nhóm người đi cùng ông trên hai chiếc xuồng, là những người Polynesia từ vùng đất huyền thoại Hiva, đổ bộ vào vùng bãi biển Anakena và đã tỏa ra sinh sống trên khắp đảo này.
Con cháu của họ đã phân chia thành các thị tộc, và họ đều nhận mình là hậu duệ của các con trai ông.
Nhiều thế hệ đã sống trên 1.000 năm tại vùng đảo quê hương của họ trong sự cô lập với thế giới bên ngoài tại rìa phía Nam của tam giác Polynesia.
Một số nhà khoa học cho rằng đảo Phục Sinh đã không có người ở mãi cho tới tận khoảng năm 700-800. Kết luận này dựa vào tính toán ngôn ngữ niên đại học và dựa vào 3 niên đại cacbon phóng xạ từ các mẫu than củi.
Nhà dân tộc học Thor Heyerdahl người Na Uy đã chỉ ra nhiều nét tương đồng văn hóa giữa đảo Phục Sinh và các nền văn hóa thổ dân Nam Mỹ mà ông cho rằng có thể phát sinh từ một số người định cư đến từ phía lục địa.
Dù có nguồn gốc từ đâu chăng nữa, thì bộ tộc Rapa Nui vẫn vô cùng khác biệt, đặc trưng, bởi họ đã sinh sống cả ngàn năm trên hoang đảo giữa đại dương bao la.
Giống như các bộ tộc khác, người Rapa Nui cũng có những phong tục, tập quán đặc biệt, được gìn giữ từ hàng ngàn năm nay.
Trong vô số những nghi lễ văn hóa, thì lễ hội Tapati là quan trọng nhất. Lễ hội này được tổ chức hàng năm, vào cuối tháng Giêng và đầu tháng 2.
Lễ hội kéo dài 2 tuần để giới thiệu truyền thống văn hóa, giới thiệu những di sản Rapa Nui với cộng đồng thế giới. Đây là sự kiện thu hút đông đảo khách du lịch đến với đảo Phục Sinh.
Du khách khắp thế giới đổ ra đảo Phục Sinh không chỉ để chiêm ngưỡng, khám phá những tượng đá bí ẩn không lồ, mà còn để được hòa mình vào sinh hoạt tín ngưỡng của người Rapa Nui.
Điều đặc biệt, là du khách được thoải mái ngắm nhìn, chụp ảnh kỷ niệm, trò chuyện với những cô gái xinh đẹp, chỉ mặc chút vải che thân, thậm chí ở trần của bộ tộc Rapa Nui.
Mặc dù chỉ là bộ tộc ít người, song các cô gái bộ tộc Rapa Nui đều có cơ thể hoàn mỹ, không kém gì người mẫu, hoa hậu của thế giới hiện đại.
Các cô gái xinh đẹp, cùng các chàng trai bộ tộc sẽ mặc những trang phục truyền thống, hoặc ở trần. Họ trang trí những nét vẽ trên mặt, trên cơ thể và đội trên đầu những chiếc mũ có gắn lông vũ.
Trong vô số tiết mục của lễ hội, thì hấp dẫn nhất là tiết mục điêu khắc, thể hiện sự tài tình của những người đàn ông trên đảo, đã từng sáng tạo ra những tượng đá khổng lồ.
Hấp dẫn không kém là cuộc thi khiêu vũ đầy mê đắm của các thiếu nữ trong bộ lạc. Các vũ công chơi nhạc hòa mình vào những vũ điệu cuồng say.
Theo các nhà khoa học, xưa kia, dân cư bộ tộc Rapa Nui trên đảo rất đông, nền văn hóa phát triển rực rỡ, nên hoạt động lễ hội diễn ra rất sôi động, số lượng người đẹp cũng vô cùng đông đúc.
Tuy nhiên, vào giữa thế kỷ thứ XIX, dân số trên đảo bị thu hẹp chỉ còn khoảng 4.000 người.
Sau đó, chỉ trong vòng 20 năm, chế độ nô lệ và bệnh tật mà người phương Tây đem tới càng làm dân số đảo giảm không phanh, chỉ còn lại 111 người vào năm 1877.
Khi đảo Phục Sinh được sát nhập vào Chile năm 1888, số lượng bộ tộc Rapa Nui dần được khôi phục.
Hiện nay, trên đảo, bộ tộc Rapa Nui có khoảng 1000 thành viên. Với số lượng dân cư ít như vậy, nhưng du khách có thể ngắm mỏi mắt người đẹp, bởi hầu hết phụ nữ Rapa Nui đều rất đẹp.
VTC News
Giải mã 'cái rốn của trái đất' trên đảo Phục Sinh
Đảo Phục Sinh không chỉ hấp dẫn ở những bức
tượng bán thân nổi tiếng, mà còn có một cột mốc khó hiểu được các nhà
khoa học gọi là “cái rốn của trái đất”.
Pito te o Te Henua trong ngôn ngữ Rapa Nui có nghĩa là “cái rốn của trái đất”. Cái tên này đề cập đến một hòn đá thú vị nằm ở đảo Phục Sinh của Chile. Hòn đá này không chỉ có vòng tròn hoàn hảo mà còn phát ra từ rất tính mạnh. |
Thoạt nhìn vào hòn đá, mà những nhà khoa học gọi là “cái rốn của trái đất” dường như không có gì ấn tượng với kích thước của nó, ngoại trừ hình dáng tròn nhẵn và phát ra từ tính mạnh được đặt giữa những khối đá thô xung quanh. Tuy nhiên, hòn đá kì lạ này được còn cho là vị vua đầu tiên của đảo Phục Sinh, Hotu Matua mang đến một cách đặc biệt. |
Truyền thuyết kể về cuộc hành trình của vua Hotu Matua từ vùng đất Hiva đi du lịch đến đảo Phục Sinh, ông đã mang theo hai hòn đá đến để cân bằng móc chèo chiếc xuồng của mình. Khi đến đảo, vị vua này còn dùng hai hòn đá với mục đích là đánh dấu lãnh thổ, bằng cách đặt chúng tại mỗi rìa của hòn đảo. |
Hòn đá ngày nay không chỉ nổi tiếng với hình tròn hoàn hảo mà còn phát ra năng lượng đặc biệt. Điều này là do yếu tố từ tính bên trong đá. Khi người ta đặt một chiếc la bàn bên trên đá, ngay lập tức đá sẽ hút la bàn làm nó bị mất phương hướng. |
Trước đây, khi người ta chưa tìm ra nguyên nhân của hiện tượng này nên có những lời giải thích trái chiều, chịu ảnh hưởng của những yếu tố tâm linh, thần thánh hóa. |
Hiện tại có bốn hòn đá được đặt xung quanh tảng đá từ tính này tượng trưng cho bốn mặt của la bàn, nằm trên một góc của đảo Phục Sinh. Đây cũng là một địa điểm được du khách viếng thăm nhiều. |
Theo Tri Thức
Một ngày trên đảo Phục Sinh
Với nhiều du khách phương Tây, đảo Phục Sinh trên Thái Bình Dương được coi là “The Ultimate Destination” – nghĩa là điểm đến tối thượng, hay cũng có thể hiểu là điểm đến cuối cùng bởi mức độ khó khăn của hành trình đến đây.
Muốn đến đảo Phục Sinh, khách phải đến Chile rồi đi máy bay từ thủ đô Santiago. Một cách có vẻ đỡ mất công hơn là đến thăm đảo bằng du thuyền. Cách này thì không phải đến tận Chile nhưng rủi ro khá cao vì cứ ba chuyến du thuyền đến gần đảo sẽ có một chuyến phải bỏ cuộc do thời tiết xấu. Chính quyền đảo Phục Sinh không chịu xây cảng đón du khách nên tàu du lịch đến đây chỉ được thả neo ở xa rồi đưa khách lên canô chở vào đảo.
Từ một hòn đảo tươi tốt, Rapa Nui giờ trông có vẻ khô cằn |
Hòn đảo cô đơn
Chúng tôi chọn hành trình mang tên World Cruise với tàu Amsterdam của hãng Holland-America Line vì tour này có ghé đảo Phục Sinh. Tàu khởi hành từ Miami, đi đến các đảo vùng Caribbean, ghé thăm Trung Mỹ, xuyên kênh đào Panama… Rồi từ bờ biển Peru, thuyền lênh đênh trên đại dương năm ngày mới nhìn thấy “The Ultimate Destination”.
Sau một ngày trên đảo Phục Sinh, cả đoàn lại sẽ bập bềnh sóng nước thêm năm ngày nữa mới được xuống tàu tại điểm đến kế tiếp là đảo Tahiti. Tốn công là thế nhưng hành khách ai nấy đều náo nức mong chờ. Khi gần đến Phục Sinh, thời tiết xấu làm cả tàu hồi hộp. Nhiều người trên tàu đã từng đi hải trình này mà không lên được đảo. Thuyền trưởng sau một hồi đắn đo chờ đợi cuối cùng cũng cho mọi người lên canô tiến vào nơi mơ ước.
Hàng tượng Moai bên bờ biển |
Dù không có những resort, khách sạn lộng lẫy hay bãi biển, phong cảnh đặc sắc, Phục Sinh vẫn là nơi hấp dẫn du khách bởi một số di tích nhuốm màu huyền bí. Cái tên Phục Sinh là do nhà hàng hải Jacob Roggeveen của Hà Lan, người châu Âu đầu tiên tình cờ đi ngang qua hòn đảo lẻ loi này đặt ra để kỷ niệm ngày ông đến đảo đúng vào lễ Phục Sinh năm 1722. Chứ còn dân đảo vẫn thích gọi quê hương của mình bằng cái tên Rapa Nui, nghĩa là hòn đảo xa vắng.
Mà đúng là xa thật!
Xét về mặt địa lý, Rapa Nui nằm cô lập nhất thế giới, cách nơi gần nhất là đảo Pitcairn đến hơn hai ngàn cây số, cách bờ lục địa Chile đến gần bốn ngàn cây số. Đã vậy cả chính phủ Chile lẫn dân đảo đều không muốn Rapa Nui trở thành điểm đến du lịch đông đúc.
Con đường chính của thị trấn Hanga Roa |
Người Rapa Nui sinh sống chủ yếu bằng nghề nuôi cừu. Họ luôn tìm đủ mọi cách để giữ gìn các phong tục truyền thống và từ chối sự xâm nhập của nền văn minh bên ngoài. Dân số trên đảo vào khoảng 5.800, trong đó số người bản địa chính gốc chỉ chiếm khoảng hơn một nửa. Thị trấn duy nhất trên đảo là Hanga Roa. Chỉ ở đây mới có được dăm ba hàng quán, vài con đường nhựa dọc ngang qua mấy cơ quan hành chính, thư viện, nhà bảo tàng.
Nơi hiện đại nhất đảo không đâu khác ngoài tiệm internet cạnh mái trường nhỏ vang tiếng trẻ nô đùa trên khoảng sân dưới bóng cây. Chỉ đi thêm mấy bước vào xóm nhỏ, không khí tĩnh lặng đã trở lại với những căn nhà giản dị giữa mảnh vườn xanh mát cỏ hoa. Hanga Roa thật bình yên, dung dị giữa trời biển bao la và tiếng sóng vỗ đều trên ghềnh đá.
Gương mặt tượng được mô phỏng theo dung mạo của các bậc tiền nhân trên đảo |
Những bí ẩn trong lòng núi
Đảo Phục Sinh có hình tam giác, cạnh dài nhất chỉ hơn hai mươi cây số. Ba góc của tam giác là ba ngọn núi lửa đã tắt. Đảo không có cây cối lớn mà chỉ có dừa thưa thớt, cây bụi nhỏ và cỏ nên trông hoang vắng khô cằn. Đẹp nhất, đầy sức sống nhất trên đảo chỉ có thể nói đến… người dân.
Thanh niên thiếu nữ ở đây ai cũng có nước da màu mật ong mịn màng, nét mặt thanh tú, mắt to mày sắc. Nếu đến đảo vào đúng dịp lễ, du khách sẽ được xem nam thanh nữ tú ăn mặc gợi cảm nhảy múa rất vui. Hiện nay, mỗi năm chính phủ Chile chỉ gửi một chuyến tàu ra liên lạc và tiếp tế một số nhu yếu phẩm cho Rapa Nui. Thời gian còn lại, đảo gần như hoàn toàn biệt lập đối với thế giới bên ngoài. Càng biệt lập, đảo lại càng hấp dẫn các nhà khảo cổ trên toàn thế giới vì những điều bí ẩn trong nền văn minh xưa.
Hòn đá được mệnh danh là “Cái rốn của Trái đất” |
Bí ẩn đầu tiên là gần cả ngàn bức tượng khổng lồ hình đầu người cao từ 4 đến 10 mét, được tạc với loại đá tạo thành từ chất nham thạch cô đặc của ngọn núi lửa Rano Raraku. Những bức tượng được gọi là Moai này có nét mặt thật dài, đôi mắt sâu, chiếc mũi lớn, đôi môi mím chặt, chiếc cằm bạnh và nhọn, chiếc tai dài và chảy xuôi. Các nhà điêu khắc hiện đại phải công nhận những tác phẩm này có nhiều nét độc đáo, biểu lộ sự trầm tư mặc tưởng man mác và chắc chắn chúng được tạo ra bởi những bàn tay nghệ sĩ tài hoa thực thụ.
Đến nay đã có nhiều giả thuyết đặt ra để giải thích tại sao một dân tộc bán khai mà có khả năng khắc chạm, vận chuyển, dàn dựng trên bệ cao loạt tượng đá khổng lồ như vậy nhưng vẫn chưa có giả thuyết nào hoàn toàn thuyết phục. Trong vách ngọn núi lửa Rano Raraku còn khoảng 400 tượng Moai đứng, nằm nghiêng ngả, còn nhiều tượng tạc nằm sâu trong lòng đất và không biết bao nhiêu tượng dang dở trong vách đá. Tượng lớn nhất có chiều dài đến 21 mét. Điều thú vị là không thể tìm ra hai bức tượng giống nhau do mỗi gương mặt tượng được khắc theo hình nét của một bậc tiền nhân đáng kính trên đảo.
Quá khứ lặng im
Khi đứng dưới các tượng Moai, sự thích thú và mãn nguyện đều hiện trên những nụ cười của du khách. Hình nét các thần thánh và tiền nhân dòng tộc Tikis dân Polynesian của Rapa Nui có nét bí ẩn, tạo ấn tượng đặc biệt giữa sóng gió, trời cao biển rộng.
Đảo Phục Sinh không chỉ hấp dẫn ở những bức tượng bán thân này mà còn có nhiều đền thờ nhỏ lạ mắt gắn với nhiều câu chuyện thú vị. Một điểm tham quan phổ biến khác là cột mốc khó hiểu được dân địa phương gọi là “Cái rốn của Trái đất”.
Cái rốn của Trái đất bao gồm một hòn đá tròn xoe lớn hơn vòng tay người ôm được đặt giữa những khối đá thô bao quanh. Hòn đá trung tâm không chỉ trơn nhẵn và có vòng tròn hoàn hảo mà còn phát ra từ tính rất mạnh. Khi người ta đặt một chiếc la bàn bên trên đá, ngay lập tức đá sẽ làm kim la bàn bị mất phương hướng. Hiện tại có bốn hòn đá được đặt xung quanh tảng đá từ tính này tượng trưng cho bốn mặt của la bàn. Cho đến nay, chưa ai rõ nguồn gốc của hòn đá kỳ lạ này.
Thiếu nữ Rapa Nui trong ngày hội truyền thống |
Theo các nhà khảo cổ, Phục Sinh từng có thời xanh rờn bóng cọ và những rừng cây cổ thụ. Cư dân ở đây đã từng lên đến vạn người, có chữ viết riêng và công nghệ tạo ra hàng loạt tượng đá khổng lồ.
Vậy điều gì khiến đảo chỉ còn là một vùng đất trơ trụi với hơn 100 dân vào cuối thế kỷ XIX, khi chính quyền Chile đặt chủ quyền ở đây? Có giả thuyết cho rằng những người sống trên đảo đã phá rừng lấy gỗ để vận chuyển tượng Moai rồi gây ra thảm họa sinh thái, hủy diệt nền văn minh trên đảo.Giả thuyết khác lại cho rằng những dao động của sóng ngầm El Nino, cả các cơn sóng thần đã gây thảm họa.
Có người còn cho rằng số phận buồn của hòn đảo cô độc này là do tác động của… người ngoài hành tinh.
Tất cả những tranh cãi đó khiến cho đảo Phục Sinh trở thành một nơi vừa cuốn hút, vừa mãi mãi xa lạ cho những con người hiện đại luôn khát khao điều huyền bí.
Theo HUYỀN ANH - CẨM TÚ/DNSGCT
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét