Uống trà vốn là thú vui tao nhã, một nét văn hoá truyền thống mang đậm phong cách Á Đông.
Cách đây hàng ngàn năm, con người đã biết đến trà như một thứ đồ uống
mang lại sự sảng khoái thanh tịnh cho tinh thần, là cách để "khai trí,
khai tâm". Người ta xem chén trà là đầu câu chuyện, là gợi mở tâm linh,
là giao thoa văn hoá và kết nối lòng ngNhắc đến trà, người ta sẽ gọi tên Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, Việt Nam…
những cái tên được xem như là đại diện tiêu biểu cho nét đẹp văn hoá
trà. Nhưng ở mỗi nơi, thưởng trà lại mang một nét riêng, một cá tính
riêng. Đặc biệt, với người dân châu Á, uống trà được nâng thành nghệ
thuật thưởng thức sành điệu mang đậm chất thơ và màu sắc tôn giáo. Có
thể xem mỗi nét đặc trưng của từ việc pha trà, uống trà, thưởng thức
trà tạo thành tấm hộ chiếu văn hoá cho từng quốc gia. Thật chẳng sai
khi người ta nói, cách uống trà cũng thể hiện cái hồn cách của dân tộc.
Hàn Quốc - xứ sở nổi tiếng của nhân sâm thì trà cũng là một nét ẩm thực được ưa chuộng ở quốc gia này.
Nghi
lễ thưởng trà ở Hàn Quốc có nguồn gốc từ Trung Hoa nhưng dưới sự tiếp
nhận sáng tạo người thưởng thức mang phong cách riêng của Hàn với nghi
lễ tìm kiếm sự thư giãn và hài hoà của nền văn hoá Korea hiện đại. Văn
hoá thưởng trà Korean không quá cầu kỳ và gò bó nhưng vẫn có những
nguyên tắc bắt buộc chủ yếu mang đến sự thư giãn cho người thưởng trà.
Tất cả hoà trộn tạo thành một nét riêng trong nghệ thuật thưởng trà
Korean. Từ xa xưa các bậc vua chúa đã quy định trong tục cúng tổ tiên
phải có trà đi kèm. Từ thời vua Suro thuộc Đế chế Geumgwan Gaya (42 –
562) đã có những quy định về việc hành lễ dâng trà mang tính quy tắc.
Từ đó đến nay nghệ thuật thưởng thức trà Korean đã có nhiều biến chuyển
cho phù hợp nhưng vẫn mang những nét truyền thống nhất định.
Không
gian trà phải được sắp xếp trong bầu không khí thật sự thanh nhã, gần
gũi với thiên nhiên. Một nét đặc trưng trong phong cách thưởng trà
Korean là còn ở trà cụ. Mỗi vật dụng để pha trà, thưởng trà cũng góp
phần quyết định đến trà phong (phong cách uống trà). Tuỳ thuộc từng mùa
trong năm mà nghệ nhân trà dùng các chất liệu trà cụ khác nhau. Trà cụ
mùa hè gồm những bát kiểu “katade” có miệng rộng để nước trà nóng mau
nguội. Mùa thu và đông kiểu bát “irabo” giữ được nhiệt của nước trà vì
phải uống nóng. Chất liệu chủ yếu của các trà cụ là gốm sứ và kim
loại với các kiểu dáng đơn giản nhưng thanh thoát, phản ánh sự gắn kết
hoà thuận với thiên nhiên. Nổi bật là những trà cụ làm bằng gốm tráng
men mà đến nay người ta vẫn ưa dùng tạo thành một phong cách - phong
cách gốm Hagi.
Khác
với Trung Hoa đánh giá chất lượng trà cụ bằng âm thanh gõ chén, bát
thì tiêu chí đánh giá của trà cụ Korean lại phụ thuộc vào mẫu mã, đường
nét màu sắc, cảm xúc của người nghệ nhân. Ngày nay “mốt mới” của tiệc
trà Korea là ngồi xung quanh một chiếc bàn thấp. Chủ nhà ngồi một bên
đun nước nóng để rửa sạch trà cụ, từ đầu đến cuối bữa tiệc. Trà cụ nếu
không dùng đến được xếp trên bàn suốt năm đậy bằng khăn vải. Bộ đồ trà
gồm có nhiều ấm pha trà màu sắc phong phú và kiểu dáng đa dạng. Trên bộ
đồ trà có các loại chén như: chén tống, chén quân. Chén tống dùng để
rót trà ra cho đều, chén quân bé hơn dùng để uống trà.
Ngay
từ những buổi đầu đến với văn hoá trà, trà phong của Korean đã thể
hiện sự gắn kết giản dị và tự nhiên chất phác với ít nghi lễ, ít độc
đoán, nhiều tự do hơn cho thư giãn và nhiều sáng tạo trong cách thưởng
thức nhiều loại trà, trà cụ và đàm thoại. Chính từ đặc điểm đó ảnh
hưởng sâu sắc tới việc hình thành sự phong phú đa dạng trong cách bố
trí trà thất đậm chất Korean. Không quá quy tắc như trà thất Nhật Bản
hay Trung Quốc, trà thất Korean mang nhiều kiến trúc khác nhau, bày trí
phù hợp với dụng ý của gia chủ và tùy thuộc theo mùa.
Người
Hàn Quốc thường đựng trà trong những hũ trà làm bằng sét nặn và
phải được tráng men trong lò đốt bằng củi. Trà được xúc ra bằng một
thìa gỗ có cán dài.
Người
Hàn Quốc thích uống trà xanh vì theo họ trà xanh để tự nhiên là giữ
được nguyên vị ngọt chát của trà. Chính vì thế họ lựa chọn trà xanh rất
cẩn thận, phải là trà búp nhỏ đồng đều, màu xanh tươi tự nhiên. Sau
này người ta hay dùng trà xanh ướp các hương khác nhau như hương quế,
hương hoa cúc… bên cạnh đó còn có trà sâm.
Trong
phương pháp pha trà, nước pha trà bắt buộc phải dùng nước suối, bởi họ
cho rằng nước suối là nước tinh khiết, bắt nguồn từ thiên nhiên nên
giữ được vị nồng ấm tươi ngon của trà. Nước pha trà là nước suối mới
lấy về, nước càng đầu nguồn vị trà càng ngon, nước phải được đun sôi
bằng củi.
Theo
quan niệm của người Hàn Quốc, cách pha trà thể hiện tâm thái của người
pha. Người pha trà ngồi giữa bàn trà thật thoải mái, tập trung tâm ý
vào việc pha trà sao cho người khách cảm nhận được thành ý của mình.
Trước khi uống trà người chủ nhà tráng chén trà bằng nước của một chiếc
ấm đun sôi sủi lăn tăn, như một biểu hiện nhiều may mắn.Chủ nhà lần
lượt tráng ấm trà, đến chén tống, chén quân, sau đó cho trà xanh vào
ấm, rót một lượt nước nóng lên trà với ý định rửa sạch bụi bặm rồi
nhanh chóng đổ nước đầu đi. Việc đổ nước đầu phải căn đúng thời gian,
nếu để lâu thì trà sẽ bị mất vị. Tuỳ thuộc vào mùa hái lá trà mà tính
thời gian cho trà ngấm vào chén. Với lá hái tháng sáu thì phải để lâu
hơn lá hai tháng tư một chút.
Chủ
nhà đổ nước vừa độ nóng vào ấm pha trà chờ ngấm 20 giây dến hai ba
phút; sau đó đổ vào chén tống cho nước trà đồng đều, rồi chắt vào chén
quân để mời khách uống.
Một buổi tiệc trà của Hàn Quốc
được thực hiện theo nguyên tắc của bốn điều: “Hoà - Kính - Thanh –
Tịnh”. Chính vì thế luôn tồn tại nền văn hóa thưởng trà thanh lịch,
không bị ảnh hưởng quá nhiều bởi Trung Hoa hay Nhật Bản như suy nghĩ
của nhiều người. Trà đồng nghĩa với sự tỉnh táo, thư giãn, tĩnh tâm để
mưu điều thiện, tránh điều ác. Người Hàn Quốc không uống trà nhiều,
uống đặc và liên tục vì quan niệm đây là triết học về sự tế nhị, thanh
tao, sự giao hòa với thiên nhiên, sự ứng xử văn hóa. Về quy tắc uống
trà trong tiệc trà Korean, khách phải chờ chủ nhà nâng chén trước rồi
mới nâng chén của mình sau tượng trưng cho một lời cảm tạ sự tiếp đón
của chủ nhà. Khi dùng trà, cầm chén quay lòng bàn tay vào trong, dâng
chén lên sát mũi để thưởng thức hương trà. Sau đó, tay che miệng, chậm
rãi hớp một ngụm nhỏ, nuốt khẽ cho hương trà thoát ra đằng mũi, đồng
thời đọng lại một phần trong cổ họng, nuốt nước bọt tiếp lần một, lần
hai, lần ba để cảm nhận. Tùy từng tiệc trà cụ thể sẽ có bánh ăn kèm phù
hợp với vị của trà.
Một
nét đặc biệt trong văn hoá thưởng trà của Korean là sự kết hợp hài hoà
với văn hoá Thiền Seon, tạo ra một nét rất riêng, rất khác biệt với
các quốc gia lân cận.Bữa tiệc trà diễn ra chậm rãi, thanh thoát, có khi
kéo dài vài tiếng đồng hồ.
Tách
trà thơm ở Hàn Quốc từ lâu đã là quà đón khách, là tâm tình của chủ
nhà với khách viếng thăm, nó còn mang giá trị tinh thần văn hoá sâu
sắc, một nét ẩm thực đặc trưng. Vấn vương đâu đấy còn lại chính là
những dư ba của vị trà hương quế, trà hoa cúc… lắng lại trong lòng thực
khách.
(TCDL)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét