Bị hấp lực bởi cảnh quan và lịch sử thăng trầm của đất nước mặt trời mọc Nhật Bản, chúng tôi đã đáp chuyến bay dài hơn 5 tiếng đồng hồ để đến vùng Kansai (thuộc miền trung tây nước Nhật), nơi có cố đô Kyoto, cổ thành Osaka nổi tiếng thế giới.
Và, chúng tôi đã không hoài công khi được tận kiến nhiều câu chuyện hấp dẫn trên vùng đất này. Độc đáo phật giáo Nhật Bản
Lâu nay, Nhật Bản được đại đa số người Việt chúng ta biết đến như là một trong những cường quốc kinh tế hàng đầu của thế giới, song rất ít người biết rằng, đây còn là một trong những quốc gia Phật giáo với số lượng tín đồ nhiều vào loại bậc nhất thế giới.
Theo quyển "Niên giám tôn giáo" do Cục Văn hóa Nhật Bản phát hành, có 127 triệu người dân Nhật tự coi mình là Phật tử và khoảng 250 ngàn tăng, ni.
Cũng theo tài liệu trên, toàn lãnh thổ Nhật Bản hiện có khoảng 75.000 đền, chùa và hơn 30.000 tượng Phật các loại, đây là con số vô cùng lớn khi đem so sánh với các nước Phật giáo khác.
Tuy nhiên, do đặc thù điều kiện địa lý, đó là nằm gần quốc gia có nền văn hóa phát triển cực thịnh trong quá khứ là Trung Quốc nên Nhật Bản chịu ảnh hưởng bởi Đạo giáo.
Song song đó, người dân Nhật còn bị hưởng bởi truyền thống thờ thần hay được gọi là Thần giáo bản địa. Thế nên, khi được du nhập vào từ thế kỷ thứ 7, Phật giáo đã từng bước hội nhập, giao thoa với Thần Giáo, Đạo Giáo để tạo ra cho mình một bản sắc riêng.
Hay nói cách khác, ở Nhật dường như không có sự phân biệt rõ ràng giữa Phật giáo và các tôn giáo còn lại. Rất nhiều ngôi đền vừa thờ thần, vừa thờ Phật và ngược lại.
Và một khi nhắc đến Phật giáo Nhật Bản, không thể không nhắc đến vùng Kansai, một trong 9 vùng địa lý của Nhật Bản.
Nằm ở vùng trung tây của đảo Honshu, vùng Kansai, nơi có cố đô Kyoto một thời được xem là trung tâm văn hóa, kinh tế, chính trị và tôn giáo của vương quốc Nhật Bản từ thế kỷ thứ 8 cho đến thế kỷ thứ 19.
Ngoài đường biển ra thì đường hàng không chính là cách duy nhất còn lại để du khách đến hòn đảo này. Và sân bay quốc tế Kansai chính là cửa ngõ để bước vào không gian sống đầy hấp dẫn của vùng đất này.
Được xây dựng trên một hòn đảo nhân tạo có diện tích trên 500 ha và kéo dài trong vòng 4 năm (từ năm 1990 - 1994), sân bay quốc tế Kansai được xem như là biểu tượng cho ý chí kiên cường trong việc chinh phục thiên nhiên của người dân Nhật Bản.
Được ví như là một hàng không mẫu hạm, mỗi năm sân bay Kansai đón trên 10 triệu hàng khách và nhiều năm liền được xếp vào danh sách 10 sân bay có chất lượng phục vụ tốt nhất thế giới. Khám phá thành cổ Osaka huyền bí
Rời sân bay quốc tế Kansai, vượt qua chiếc cầu treo khổng lồ, chúng tôi có mặt tại trung tâm thành phố Osaka, trái tim của toàn bộ vùng Kansai.
Với dân số khoảng 2,7 triệu người, Osaka được xem là thành phố lớn thứ ba ở Nhật Bản. Thành cổ OsakaTrong thời kỳ Edo, từ năm 1603 đến năm 1867, Osaka là một trong những thành phố chính và đóng vai trò như là một hải cảng quan trọng bậc nhất ở miền trung Nhật Bản.
Ngày nay, Osaka không chỉ được biết đến như là một trung tâm kinh tế-văn hóa mà còn là một biểu tượng cho ngành công nghiệp du lịch của vùng Kansai.
Một trong những danh thắng tạo nên sự nổi tiếng và hấp dẫn của Osaka nói riêng và vùng Kansai nói chung là đây - thành cổ Osaka.
Tên gọi nguyên bản của nó là Ozakajo- là một trong những thành quách nổi tiếng và đóng một vai trò quan trọng trong việc thống nhất Nhật Bản vào cuối thế kỷ 16.
Lâu đài Osaka nằm trên khu đất chỉ rộng một km2. Nó được xây trên hai bệ đá cao tựa vào hai vách tường đá dựng đứng, bao quanh bởi hai con hào. Kiến trúc lâu đài trung tâm có 5 tầng ở phía ngoài và 8 tầng ở phía trong, và được xây trên một tảng đá cao để bảo vệ người trong thành chống lại những kẻ tấn công bên ngoài.
Theo các tài liệu lịch sử còn lưu lại, thành Osaka ngày nay được xây dựng trên nền một ngôi chùa cổ có tên là Ishiyama Hongan.
Người khởi xướng xây dựng chùa Ishiyama Hongan có tên là Liên Như - một trong những người truyền giáo vĩ đại của Tịnh độ chân tông Nhật Bản vào năm năm 1496.
Mặc dù ý tưởng ban đầu của đại sư Liên Như chỉ là mong muốn tìm một nơi biệt lập để nghỉ ngơi trong yên tĩnh, thế nhưng do thanh danh và đức độ của ngài nên chùa Ishiyama Hongannhanh chóng thu hút nhiều đồ đệ đến tu học và hành đạo.
Ngôi chùa nhỏ mà Liên Như cho xây dựng dần được mở rộng, kèm theo đó rất nhiều nhà cửa và công trình được dựng lên để phục vụ cho những cư dân mới. Khi Liên như qua đời ba năm sau đó, hình dáng và kích thước của chùa Ishiyama Hongan nói chung đã được định hình.
Sau khi chùa Yamashina Mido, một ngôi chùa có cùng niên đại với chùa Ishiyama Honganbị phá hủy năm 1532, chùa Ishiyama Hongan trở thành trung tâm của Phật phái Tịnh độ tông của vùng Kansai.
Tuy nhiên, năm 1583 để phục vụ cho mục đích quân sự, lãnh chúa Tomiyomi Hideyashi- một trong hai người được lịch sử ghi nhận như là người có công thống nhất Nhật Bản đã cho phá hủy chùa Ishiyama Hongan để biến nó thành một pháo đài kiên cố. Du khách du lịch đến thăm thành cổSau hơn 300 năm trải qua nhiều thăng trầm cùng thời gian và thời cuộc, thành Osaka vẫn đứng vững trước lịch sử như một chứng nhân về những thời kỳ vàng son cũng như đen tối trong lịch sử xứ Phù Tang.
Sau nhiều lần trùng tu và mở rộng, thành Osaka ngày nay có tổng diện tích khoảng 60.000m2 bao gồm 13 hạng mục và được chính phủ Nhật Bản xếp vào dạng di tích lịch sử quốc gia và là điểm thu hút hàng triệu du khách thăm viếng mỗi năm.
Mặc dù ngôi chùa Ishiyama Hongan- biểu tượng cho một giai đoạn cường thịnh của Phật giáo vùng Kansai giờ đã không còn, song với hàng triệu Phật tử Nhật Bản, ngôi chùa linh thiêng này dường như bao đời nay vẫn tồn tại song hành cùng cổ thành Osaka huyền thoại.
Và đó chính là một trong những dấu chỉ đầu tiên cho thấy rằng, đạo Phật ở Nhật Bản nói chung và vùng Kansai nói riêng rất đa dạng trong hình thức thể hiện. Và trong bất kỳ hình thức gì, thì Phật giáo vẫn tồn tại trong đời sống tâm linh của người dân mặc cho những biến thiên của thời gian và thời cuộc. Nguyễn Minh
Số phận thăng trầm của ngôi chùa thiêng ở Nhật Bản
Chùa Gác Vàng, ngôi chùa nổi tiếng ở Nhật Bản - Ảnh: Internet
Là một trong những ngôi chùa nổi tiếng nhất Nhật Bản, chùa Gác Vàng đường xem là điểm đến không thể thiếu cho bất kỳ ai khi đặt chân đến vùng đất Kansai. Và trong chuyến hành trình đi qua vùng đất trung tây nước Nhật, chúng tôi cũng đã đặt chân đến đây, để chạm vào những nghi lễ cầu may thú vị ở ngôi chùa này.
Ngôi chùa thiêng của người Nhật
Để giúp cho du khách sẵn sàng hơn trong việc tiếp nhận không gian thiêng liêng và huyền bí, trên đường duy chuyển từ khách sạn đến chùa Gác Vàng, người hướng dẫn liên tục cung cấp cho chúng tôi biết thêm thông tin về thói quen của người Nhật. Theo đó, người dân ở đất nước này thường có thói quen viếng chùa vào dịp đầu năm, mục đích chính của việc này là cầu mong đức Phật hiển linh phù hộ độ trì cho một năm mới thiên nhiên giao hòa, cuộc sống cá nhân, gia đình và cộng đồng hanh thông. Và một trong những ngôi chùa được người dân khắp nước Nhật lựa chọn chính là chùa Gác Vàng mà chúng tôi đang đến. Du khách đến thăm ngôi chùa Giác Vàng nổi tiếng Nhật Bản - Ảnh: InternetTheo các tài liệu còn lưu giữ, chùa Kin Ka Ku, tức chùa Gác Vàng hay Kim Các Tự được khởi công xây dựng vào năm 1397.
Cũng theo các tài liệu trên, mục đích ban đầu của việc xây dựng này cốt để tạo ra một lăng mộ dành cho một Shogun hay còn gọi là lãnh chúa của dòng họ Ashikaga nổi tiếng và quyền lực nhất thời bấy giờ. Shogun này có tên là Yoshimitsu, sinh năm 1336, mất năm 1393.
Tuy nhiên, sau khi chấp chính, con ông trao Yoshimitsu - một tín đồ phật giáo thành tâm đã quyết định thay đổi công năng của công trình kiến trúc trên.
Ông từng bước thay đổi cấu trúc và dần dần biến nó thành một ngôi chùa để thờ tự đức Phật, phần còn lại ông biến thành một thiền viện cho tín đồ Phật giáo thuộc dòng Lâm Tế trú ngụ, tu hành.
Tuy nhiên, cũng giống như lịch sử dân tộc và Phật giáo Nhật Bản, chùa Gác Vàng cũng trải qua rất nhiều thăng trầm. Trong cuộc nội chiến mà lịch sử gọi là cuộc chiến Onin (diễn ra 1467-1477), ngôi chùa bị đốt cháy rụi hoàn toàn.
Nguyên do, một trong những người em của lãnh chúa Yoshimasa thuộc dòng họ Ashikaga khi được chọn làm người kế vị (đang là một tu sĩ trong chùa Gác Vàng) bị nhiều người chống đối.
Đỉnh điểm của cuộc chống đối này là một cuộc chiến tranh giữa hai phe và hậu quả của nó là hàng ngàn người đã phải bỏ mạng, chùa Kinkaku bị thiêu rụi.
Tuy nhiên, số phận thăng trầm của chùa Kinkaka vẫn chưa dừng lại ở đó.
Gần 500 năm sau, vào năm 1950, trong một cơn nóng giận, một vị sư trong chùa đã nổi lửa thiêu rụi tòa Gác Vàng .
Sau khi biến tòa tháp 500 tuổi thành tàn tro, nhà sư đã tự tử nhưng bất thành. Nhận thấy mình cũng có một phần trách nhiệm trong việc giáo dục con cái,mẹ nhà sư đã gieo mình xuống sông tự vẫn. Riêng vị sư nói trên bị tòa tuyên án bảy năm tù giam, tuy nhiên sau 6 năm sống trong hối tiếc, vị sư này đã lâm bệnh và qua đời.
Và sau sự kiện đầy bi kịch đó, chùa Kinkaku đã được trùng tu lớn, đó là vào năm 1955. Đến năm 1987, nhà chùa đã cho dát thêm lớp vàng mới bên trong khu gác vàng. Những nghi thức thú vị ở chùa Gác Vàng
Trở lại với vai trò của chùa Kinkaku trong đời sống tâm linh của người dân Nhật Bản.
Và một trong những nghi thức thú vị và đậm chất tâm linh ở ngôi chùa này chính là nghi thức ném đồng xu may mắn.
Đại đa số người dân Nhật Bản tin rằng, người nào ném đồng xu lọt vào chiếc hủ được đặt cách đó vài mét càng nhiều thì cả năm sẽ gặp được nhiều điều tốt lành. Đánh chuông cầu may - Ảnh: Nguyễn MinhNgười Nhật quan niệm rằng, ném đồng xu lọt vào hủ sẽ mang lại may mắn - Ảnh: Nguyễn MinhBên cạnh nghi thức ném đồng xu may mắn, rung chuông cầu mong cho sự an bình cho gia đình, bạn bè cũng là một thói quen không thể thiếu đối với người dân Nhật. Và đây chính là một nét rất riêng và rất lạ ở những ngôi chùa Nhật Bản.
Chúng tôi chia tay người dân Nhật Bản cùng những phong tục thú vị đầu năm trong nuối tiếc. Bởi, không dễ gì để khám phá và cảm nhận một tập tục đã có từ ngàn đời nay trong một quỹ thời gian hạn hẹp.
Song, chúng tôi vẫn tin rằng, trong những bước chân tiếp theo, nhiều không gian cuộc sống thú vị ở xứ sở hoa anh đào sẽ mở ra cho chúng tôi khám phá...
Fushimi Inari, ngôi đền ngàn cổng kỳ lạ ở Nhật Bản
Chúng tôi đến đúng vào dịp đền Fushimi Inari tổ chức lễ hội nên không khí ở đây khá nhộn nhịp.
Ở đất nước mặt trời mọc Nhật Bản, bên cạnh Phật giáo ra, ngàn đời nay, người dân còn có tập quán tôn thờ các vị thần đến từ thế giới tự nhiên.
Thế nên, việc phối thờ Thần - Phật xuất hiện khá phổ biến ở các đền, chùa trên khắp đất nước Nhật Bản. Và có lẽ do xuất phát từ lý do đó mà nhiều người Nhật cho rằng mình vừa là Thần tử, vừa là Phật tử.
Và theo một số người, đây chính là nguyên nhân mà Nhật Bản được xếp vào nhóm những quốc gia có số lượng tín đồ Phật giáo cao của thế giới.
Để tìm hiểu rõ hơn về tập tục phối thờ Thần, Phật, người hướng dẫn đưa chúng tôi ghé thăm một trong những ngôi đền Thần đạo nổi tiếng không chỉ vùng Kansai mà khắp nước Nhật, đó là đền Fushimi Inari hay còn gọi là ngôi đền ngàn cổng.
Dấu chỉ đầu tiên cho thấy sự kết hợp hài hòa giữa Thần đạo và Phật giáo ở khu đền Fushimi Inari chính là hệ thống cửa hàng bán đồ lưu niệm kéo dài hàng cây số.
Nếu như những lá bùa may mắn, một trong những vật thiêng trong các ngôi chùa Nhật Bản, đại diện cho Phật giáo mang phong cách Nhật thì những chiếc mặt nạ, búp bê hình con cáo chính là đại diện cho sự linh thiêng của thần đạo Shinto Nhật Bản.
Chúng tôi đến đúng vào dịp đền Fushimi Inari tổ chức lễ hội nên không khí ở đây khá nhộn nhịp.
Phía trước cổng chính dẫn vào đền, những người tổ chức lễ hội cho bố trí một hồ nước nhân tạo và một bức tượng Phật nhỏ để người dân làm nghi thức tẩy trần, tắm Phật cầu cho quốc thái dân an, gia đình an khang thịnh vượng. Ngoài ra còn có một hệ thống chuông dây, một vật thiêng đặc trưng của Phật giáo Nhật Bản, để người dân tự mình gióng lên những hồi chuông hạnh phúc.
Và đây chính là những dấu chỉ tiếp theo cho thấy Thần đạo và Phật Giáo, hai tôn giáo chính ở đất nước mặt trời mọc, có một sự pha trộn và hòa hợp lẫn nhau khá thú vị.
Như đã nói, đền Fushimi Inari là ngôi đền Thần đạo, nên về mặt kiến trúc lẫn thờ tự những vị thần của tôn giáo này luôn chiếm vai trò chủ đạo và yếu tố Phật giáo chỉ mang tính chất bổ sung.
Theo ước tính, hiện có khoảng 40 ngàn ngôi đền Thần đạo nằm trải khắp đất nước Nhật Bản và con số thần được thờ lên đến hàng ngàn.
Thông thường, các linh vật được phong thần và thờ tự thường liên quan đến nghề nghiệp hoặc nhu cầu của sống của người dân bản địa.
Trước khi đặt chân đến ngôi đền Fushimi Inari huyền thoại, chúng tôi có dịp đi ngang một làng chài ven biển Nhật Bản.
Ngoài thần cáo ra, ngư dân ở ngôi làng chài này còn thờ cả thần cua, thần cá, thần tôm....Đây chính là bằng chứng cho thấy sự đa dạng trong tín ngưỡng thờ thần của người dân Nhật Bản.
Trong số hàng vạn vị thần được thờ trong các ngôi đền Thần Đạo, nữ thần Inari với hiện thân là con cáo trắng, là vị thần tiêu biểu và có mặt hầu như ở khắp các ngôi đền.
Theo truyền thuyết, nữ thần Inari là thần bảo hộ cho lúc gạo và rượu sake, hai đại diện chủ đạo cho nền văn hóa lẫn thương mại của Nhật Bản từ hàng trăm năm trước.
Tuy nhiên, chỉ có ở ngôi đền Fushimi Inari, linh vật này được tôn thờ một cách trang trọng nhất. Cáo trắng là biểu tượng linh thiêng trong các ngôi đềnVì sao người ta chọn cáo trắng làm linh vật?
Với nhiều dân tộc trên thế giới, trong đó có người Việt chúng ta, con cáo đại diện cho sự gian trá và xảo huyệt. Tuy nhiên, đối với người dân Nhật Bản, cáo đại diện cho sự linh hoạt, cần mẫn và thông minh, những yếu tố mà theo người Nhật Bản, có nét tương đồng với dân tộc mình. Và đó là lý do mà linh vật cáo trắng được chọn làm hóa thân của nữ thần Inari huyền thoại.
Trở lại với khu đền Fushimi Inari.
Theo các tài liệu còn lưu lại, đền Fushimi Inari được xây dựng năm 711 trên ngọn đồi mang tên nữ thần Inari.
Tuy nhiên, do nhu cầu tín ngưỡng ngày càng cao của người dân, năm 965, ngôi đền được dời xuống chân đồi Inari và tồn tại ở vị trí này cho đến ngày nay. Cũng như tất cả đền thờ thần Inari, ngôi đền Fushimi có một ngôi chính điện sơn màu đỏ thẳm được nối liền với dãy hành lan có hai hàng cột hai bên dài hun hút, được sơn màu đỏ son vô cùngấn tượng.
Theo truyền thống nghìn đời, trước mỗi mùa vụ, nông dân ở khu vực cố đô Kyoto đến Fushimi Inari để cầu khấn cho mùa vụ tươi tốt. Về sau, khi nước Nhật vươn lên trở thành một cường quốc công nghiệp, trong dòng người đổ về ngôi đền huyền thoại này còn có giới doanh nhân giàu có.
Và một khi mọi sự mua bán làm ăn được hanh thông, các chủ doanh nghiệp tạ ơn thầ Inari bảo hộ bằng cách cúng dường hiện kim đủ để dựng nên một cổng torii gỗ tuyết tùng phủ sơn màu đỏ son chói.
Cứ thế, qua thời gian, Fushimi Inari không chỉ có vài ba cổng torii như các đền thờ Thần Đạo khác, mà có đến hơn 10.000 cổng torii nhỏ nối tiếp nhau rải thành một đường ống dài khoảng 4km uốn lượn theo triền núi sau đền.
Vì sao vật phẩm cúng thần lại là những chiếc cổng torii?
Trong tín ngưỡng của Thần Đạo, chiếc cổng torii mang ý nghĩa tượng trưng cho mốc không gian chuyển tiếp giữa thế giới phàm trần và cõi linh thiêng hay nói một cách khác đây chính là cửa ngõ để đi vào thế giới của thần linh.
Và đó là lý do mà những chiếc cổng với màu đỏ đặc trưng cứ thế tăng lên, trở thành một nét đặc trưng rất riêng của ngôi đền Fushimi Inari huyền thoại, nơi mà dấu ấn về sự giao hòa giữa Thần đạo và Phật giáo cứ thế tồn tại từ ngàn đời nay.
Đi tìm truyền thuyết về sự bất tử ở ngôi chùa nổi tiếng Nhật Bản
Ngay từ khi còn ở quê nhà, chúng tôi nghe nhiều thông tin đến cảnh đẹp và những câu chuyện ly kỳ liên quan đến một trong những ngôi chùa được xem là cổ xưa nhất và bí ẩn bậc nhất xứ sở Phù Tang, chùa Thanh Thủy (tên chính thức là Otowasan Kiyomizu dera).
Hành trình lý thú giữa miền tuyết phủ
Trước khi vượt hàng trăm cây số từ nơi nghỉ đến chùa Thanh Thủy, người hướng dẫn còn cho biết, một số tình tiết trong câu chuyện liên quan đến chùa Thanh Thủy có thể khắc họa được bằng hình ảnh, song, có không ít chi tiết chỉ có thể kể được bằng lời bởi theo thời gian nó đã trở thành truyền thuyết, đó là truyền thuyết về sự bất tử. Và đó cũng là lý do chính mà người hướng dẫn quyết tâm đưa chúng tôi đi thăm ngôi cổ tự này.
Tuy nhiên, do thời tiết trong những ngày chúng lưu lại trên đất Nhật diễn biến khá thất thường nên hành trình của chúng tôi gặp một vài trục trắc nhỏ. Từ chiếc loa tay, người hướng dẫn đoàn thông báo tuyến đường dẫn đến chùa Thanh Thủy nhiều đoạn bị ách tắc giao thông do tuyết rơi mạnh vào đêm qua.
Đây thực sự là một trở ngại lớn cho đoàn, bởi khoảng cách từ nơi ở của chúng tôi đến chùa dài hơn 200 cây số.
Để không mất thời gian cho đoàn, trên đường đi người hướng dẫn đưa chúng tôi ghé thăm một xưởng sản xuất mì nhỏ ven đường.
Với người dân Nhật Bản, mì là một phần trong văn hóa ẩm thực truyền thống từ ngàn đời nay. Và đó là lý do mà không khó để chúng ta bắt gặp những xưởng mì như thế này trên dọc đường đi.
Riêng với những người theo Phật giáo Nhật Bản, ăn những món mì truyền thống dịp năm mới được xem như là một liệu pháp mang lại điềm lành, điềm may cho cả một năm.
Bởi theo quan niệm từ ngàn xưa, sợi mì tượng trưng cho sự trường thọ và suông sẻ trong cuộc sống, sợi mì càng dài, càng suông thì sự may mắn cứ thế tăng lên.
Ở Nhật có rất nhiều loại mì với nhiều tên gọi khác nhau tùy theo vùng miền. Tuy nhiên, nổi tiếng nhất vẫn là 3 loại mì có tên là Udon, Soba và Ramen.
Và khi nhắc đến mì Nhật Bản không thể không nhắc đến mì udon, một trong những thức ăn phổ thông bậc nhất ở đảo quốc này. Mì udon có mặt hầu như khắp nơi, từ những con đường nhỏ, cửa hàng thực phẩm đến các nhà hàng, khách sạn.
Trong khi đó mì soba được xem như là loại mì cổ xưa nhất Nhật Bản, nó xuất hiện lần đầu tiên vào khoảng năm 1500 ở xung quanh thành Edo, nay là thủ đô Tokyo.
Theo truyền thuyết thì loại mì nguyên thủy đầu tiên được dành riêng để dâng lên Tướng quân là Sarashina ki-ippon. Do đó mà mì soba còn được gọi là Nihon soba, nghĩa là soba Nhật Bản. Cùng với udon, soba là món mì có từ lâu đời tại Nhật Bản. Mi udon của Nhật - Ảnh: InternetRiêng mì ramen thì được du nhập từ Trung Quốc và bắt đầu phổ biến ở Nhật vào khoảng năm 1910. Không giống như lúc khởi thủy, mì ramen khi đến đất Nhật đã được kết hợp với các nguyên liệu bản địa để tạo nên hương vị tùy theo vùng.
Rời xưởng mì, con đường dẫn về Thanh Thủy Tự, mục tiêu cuối ngày của chúng tôi vẫn chưa hết ùn tắc.
Để chờ đợi, chúng tôi quyết định ghé thăm một trong những địa điểm đã tạo nên huyền thoại về nghệ thuật võ thuật và quân sự của Nhật Bản, Bảo tàng Ninja Iga.
Do đặc thù của mình nên ninja hàng trăm năm nay, lịch sử ra đời cũng như những nguyên tắc hoạt động của đội quân này luôn năm trong thế giới thực hư.
Tuy thế, vẫn có một số tài liệu cho rằng ninja xuất hiện vào khoảng thế kỷ 14, một số tài liệu lại cho rằng những tiền đề đầu để Ninja ra đời xuất hiện sớm nhất vào cuối thời kỳ Heian và đầu thời kỳ Kamakura.
Về nguyên tắc hoạt động, ninja được xem như là đội quân đánh thuê, chuyên hoạt động bí mật, có chức năng gián điệp, phá hoại, xâm nhập, ám sát, thậm chí có thể tham gia tập kích đối phương trong một vài trường hợp nhất định.
Các ninja, khác với samurai vốn có những quy định nghiêm ngặt về danh dự và chiến đấu, lại thường thiên về các thủ đoạn không quy ước và bí mật. Bảo tàng NinjaNgày nay, để góp phần bảo tồn và quảng bá ninja ra thế giới, chính quyền thành phố Iga, nơi được xem là cái nôi của nghệ thuật ninja cho tổ chức nhiều show biểu diễn để phụ vụ cho du khách. Chùa Thanh Thủy- nơi lưu giữ truyền thuyết về sự bất tử
Cuối cùng thì đích cuối cùng của chúng tôi đã đến, Chùa Thanh Thủy vào cuối giờ chiều. Tuy trời muộn, song có rất nhiều du khách và Phật tử vẫn cố gắng nán lại để viếng ngôi cổ tự này.
Chùa được một nhà sư thuộc phái Pháp tướng tông có tên là Enchin hay còn gọi Duyên Trấn chủ trì xây dựng vào năm 778, tức đầu thời kỳ Nara. Ngôi chùa huyền ảo chìm trong mưa tuyết trắngTuy nhiên, sau nhiều lần trải qua thiên tai địch họa, chùa Otowasan Kiyomizu nhiều lần bị thiêu rụi.
Những kiến trúc mà chúng ta đang thấy hiện nay được tái dựng từ năm 1633.
Về mặt kiến trúc, chùa Thanh Thủy được xem như là độc nhất vô nhị ở Nhật Bản khi toàn bộ chánh điện được đỡ bởi hàng trăm cột gỗ và được kết nối với nhau hoàn toàn bằng những mọng gỗ.
Mặc dù vậy, trải qua hàng trăm năm tồn tại, ngôi chùa này vẫn đứng vững trên ngọn đồi như là một ốc đảo nổi giữa không trung.
Có lẽ, chính lối kiến trú huyền ảo ấy đã tạo nên nhưng điều huyền hoặc.
Một số Phật tử trước đây cho rằng, những ai đứng từ bệ đỡ trước cửa chánh điện nhảy xuống chân đồi không bị thương tích sẽ trường thọ, gặp nhiều may mắn trong cuốc sống. Thế nên đã có rất nhiều tín đồ đã gieo mình từ trên tòa kiến trúc này xuống chân đồi trong sự hân hoan.
Theo thống kê, từ thời Edo cho tới khi bị cấm cách đây vài mươi năm, đã có 234 lượt người thực hiện hành động này, và kỳ lạ thay có đến 85,4% trong số không phải theo tổ tiên về trời.
Thực hư về sự bất tử này vẫn chưa rõ, song với nhiều Phật tử, được đến ngôi chùa nay, đắm mình trong không gian Phật giáo huyền ảo say đắm lòng người đã là một sự bất tử, đó là sự bất tử trong tâm hồn, trong trái tim của người con Phật.
Còn với chúng tôi, một hành trình từ xưởng mì truyền thống, qua quê hương của những ninja huyền thoại cho đến câu chuyện về ngôi cổ tự này đã cho thấy rằng, ở xứ sở Phù Tang, tất cả đều là những điều bất tử. Mùa Thu, khách thập phương nườm nượp đến tham quan ngôi chùa Nguyễn Minh (Ảnh: Internet)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét