“As Time Goes By” là bài hát tôi rất yêu thích khi bắt đầu học tiếng Anh hồi cấp 2, còn “Casablanca” là tên bộ phim gối đầu giường của những kẻ đầu 8X. Nhưng ngày ấy Casablanca hay Morocco với tôi là một vùng trời vô cùng xa lạ, xa vời và xa xôi. Nào có tưởng tượng được 30 năm sau mình lại len lỏi qua từng ngõ ngách đẹp mê hồn ở thành phố xanh hay chết mê chết mệt ẩm thực Morocco ở thành phố đỏ. Và dĩ nhiên đánh mất luôn cả một trái tim tại Casablanca.
21/04/2017, 8:45
PIN
Đừng đến Chefchaouen để rồi chẳng muốn về
Sau hơn 10 giờ bay từ Nairobi đến Casablanca và quá cảnh ở Cairo (Ai Cập), chúng tôi đến sân bay Mohammed V International Airport (Casablanca) rồi lại tiếp tục đi tàu đến Tangier để trung chuyển về “thành phố xanh” huyền thoại Chefchaouen. Một điều không may đã xảy ra là người thì tới nhưng hành lý vẫn còn mắc kẹt ở… Ai Cập. Cô bạn đồng hành quá mệt mỏi quyết định dừng chân tại Casablanca còn tôi quyết tâm vẫn hướng Chefchaouen như đúng lịch trình.
Trên chuyến tàu từ sân bay vào ga Casa-Port của Casablanca, vận dụng chút tiếng Pháp còn sót lại từ thời đại học tôi cố hỏi người dân xung quanh còn ga nào có thể mua vé tàu đến Tangier vì chuyến tàu cuối cùng đã bỏ tôi từ lúc nào không biết. May sao lúc ấy có một “anh Bụt” người Morocco đã tận tình vẽ (là vẽ chứ không hẳn là viết) đường đi – đường về, tàu đi – tàu về, bus đi – bus về chi tiết từng chút một để tôi có thể đến được Tangier và Chefchaouen thuận tiện nhất. Thậm chí, Aiz – tên anh chàng – có vẻ không yên tâm lắm nên đã dẫn tôi đến tận ga tiếp theo giúp mua vé rồi còn ngồi chung thêm một chặng mới xuống tàu về nhà trong sự áy náy, hận không thể đưa tôi đến tận Chefchaouen. Cảm ơn Aiz dù rằng tôi đã lú lẫn đến nỗi quên không hỏi xin email hay cách thức liên lạc với anh.
Khi tài xế hãng xe buýt CTM thông báo đã đến Chefchaouen, thành phố phố ở dãy núi Rif phía Bắc Morocco hiện ra trước mắt tuyệt không làm tôi thất vọng như những gì đã tìm hiểu trên Internet trước đây. Một màu xanh biếc phủ khắp một vùng trời thiệt làm mát mắt người ta. Tôi đặc biệt yêu thích các ô cửa màu xanh với hoa văn đặc trưng của thành phố. Từng ngôi nhà được sơn xanh theo mức độ đậm nhạt khác nhau xen kẽ giữa các con đường, bậc thang và nhiều ngõ ngách giống hệt nhau sẵn sàng khiến ta lạc vào mê cung không lối ra. Thây kệ, lạc ở đây cả đời tôi cũng chịu. Chẳng ai chối từ cái đẹp cả!
Dọc theo mọi con đường, bậc thang tại thành phố xanh là các cửa hàng bán đồ lưu niệm và vật dụng đặc trưng của Chefchaouen lẫn Morocco, trong đó nhiều nhất là thảm và chăn. Chiều hôm ấy tôi “lội” lên đỉnh núi gần thành phố có nhà thờ Hồi giáo Tây Ban Nha để ngắm hoàng hôn và toàn cảnh thành phố. Chán chê ở Chefchaouen tôi tiếp tục bắt chuyến bus CTM sớm nhất lên đường đi Marakkesh để hội ngộ người bạn đi cùng sau khi lấy được hành lý từ sân bay.
Đêm ngàn lẻ một ở Sahara
Marrakesh (còn có tên khách là Marrakech) được xây dựng bởi quốc vương Youssef Ibn Tachfin của triều đại Almoravide từ năm 1062. Tên Marrakesh trong ngôn ngữ Berber có nghĩa là vùng đất thánh, hay còn gọi là vùng đất của Chúa. Cũng như Chefchaouen, Marakkesh “cám dỗ” đến từng mét vuông một khi toàn bộ nhà cửa, tường thành, bậc thang và mọi ngõ ngách ngập tràn trong sắc đỏ .Thế nhưng nếu đến Marakkesh chỉ vì cái tên “thành phố đỏ” thì quả là đánh giá thấp sức quyến rũ của nơi này.
Vài ngày ngắn ngủi tại “kinh đô du lịch của Morocco” đủ khiến hồn vía tôi không thể chịu đựng nổi vẻ đẹp cùng không khí cuồng nhiệt, nóng bỏng (một phần vì sắc đỏ?!) tại đây. Đó là quảng trường náo nhiệt Djemaa el-Fna với đủ thứ âm thanh hỗn tạp vui tai từ những hàng quán dọc hai bên hay từ các màn trình diễn nghệ thuật của các nhóm nghệ sĩ đường phố với vô số những tiết mục hấp dẫn như biểu diễn xiếc, ca hát nhảy múa tưng bừng một góc trời rồi còn có cả xem bói, vẽ henna… khiến tôi cảm tưởng mình đang có mặt tại một lễ hội carnival nào đó.
Tuy vậy mang đến cho tôi cơn chấn động mạnh có lẽ là hành trình xuyên sa mạc Sahara trong cái nắng đổ lửa nhưng đầy ngoạn mục. Con đường đến Sahara đẹp mọi cung bậc không ngôn từ nào tả xiết. Lúc thì nên thơ với hoa hạnh nở rộ hai bên, lúc thì hùng vĩ khi lọt thỏm trong lòng dãy núi Atlas. Và rồi tất cả chẳng là gì khi đến Zagora, nơi mà nhiều người gọi là ranh giới giữa thế giới văn minh hiện đại bên ngoài và thiên nhiên hoang dã. Từ Zagora tôi loạng choạng leo lên lưng chú lạc đà một bướu và khởi hành cho chuyến phiêu lưu xuyên biển cát vàng mênh mông.
Tối hôm ấy giữa sa mạc với khí trời se lạnh, đám chúng tôi sau bữa ăn no nê lại được thưởng thức chương trình văn nghệ miễn phí từ các chàng trai địa phương đi cùng. Khỏi phải nói tôi chết mê chết mệt hình ảnh những người đàn ông Morocco khi họ quấn khăn trên đầu, chân ngồi xếp bằng và tay nhâm nhi ly rượu bên ánh lửa hay lúc họ cất giọng hát theo tiếng trống nhịp nhàng. Trời ạ, đây chẳng phải là các nhân vật bằng xương bằng thịt bước ra từ “Nghìn lẻ một đêm” sao?
Những ngày cuối hành trình tôi dành trọn cho Casablanca vì những gì tốt đẹp nhất nên dành lại sau cùng. Trong số các hoạt động nên làm tại “thành phố tình yêu” Casablanca, tôi thích nhất là ngắm bình minh ở nhà thờ Hồi giáo lớn thứ hai trên thế giới Hassan II. Nhà thờ nổi tiếng không chỉ bởi vị trí có một không hai ngay sát bờ biển Đại Tây Dương mà còn bởi kiến trúc độc đáo. Khoảnh khắc khi những tia nắng đầu tiên soi qua từng ô cửa tại thánh đường Hassan II với hình nền là đàn chim bồ câu bay ngợp trời cùng bản nhạc kinh điển “As Time Goes By” là bữa điểm tâm không gì có thể phàn nàn hơn tại Casablanca.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét