Thành phố giữa thung lũng xanh
Chúng tôi đến Ulan Bator vào lúc đã gần trưa. Sân bay quốc tế duy nhất của Mông Cổ nhỏ và không mấy hiện đại. Bù lại, thủ tục nhập cảnh dễ dàng, nhanh chóng, nhân viên hải quan tươi tắn, thân thiện. Ra khỏi sân bay, đường phố hiện ra dần nhưng thưa vắng người. Dưới bầu trời cao xanh lồng lộng, thành phố hầu như không có cây lớn.
Ulan Bator theo tiếng Mông Cổ là Ulaanbaatar, có nghĩa là “anh hùng đỏ”, nằm trong một thung lũng xanh có dòng sông Tuul chảy qua, được bao bọc bởi bốn dãy núi, người dân coi đây là bốn dãy núi thiêng nên không dám đặt tên. Ngay cả người hướng dẫn viên khi được du khách hỏi cũng không dám trả lời miệng, mà chỉ viết lên giấy.
Núi thiêng có đường đi lên, nhưng tuyệt đối không được nhặt đá hay hái bất kỳ lá cây ngọn cỏ nào. Ý thức tôn trọng thiên nhiên và cách sống thật thong thả là ấn tượng đầu tiên của chúng tôi về người dân Ulan Bator. Các dải núi đều thấp và có sườn thoai thoải, một trong bốn dãy có tạc chân dung Thành Cát Tư Hãn.
Thời gian gần đây, người Mông Cổ thường cố gắng đưa hình ảnh Thành Cát Tư Hãn trở thành biểu tượng của dân tộc để thế giới thấy được hình ảnh của họ sau những năm dài ngủ quên. Hình ảnh Thành Cát Tư Hãn xuất hiện trên tiền giấy và nhãn của nhiều loại rượu mạnh. Các hãn (vua) Mông Cổ sau này còn hướng dân chúng tưởng niệm đến ông như một vị thánh tôn giáo.
Không hổ danh là đất nước của người du mục, Mông Cổ đã 28 lần di chuyển thủ đô trước khi Ulan Bator phát triển đủ lớn để không thể di dời (vào cuối thế kỷ XVIII). Hiện nay vẫn có ý kiến cho rằng nên dời thủ đô về lại kinh đô cũ là thành phố Kharakhorum, bởi Ulan Bator bị núi bao bọc cả bốn phía nên không thể mở rộng được. Hơn nữa, thành phố nằm lọt thỏm ở vị trí thấp nên bao nhiêu chất thải đều bị đọng lại, khiến môi trường bị ô nhiễm. Thường chỉ sau một trận mưa rào là nhiều đường xá đã ngập nước, còn ngày nắng thì bụi đất và khói xe mù mịt.
Phôi pha dần đời du mục
Là một trong những thủ đô lạnh nhất thế giới với nhiệt độ trung bình thấp hơn -1 độ C, đất đai lại khô cằn, Ulan Bator nói riêng và Mông Cổ nói chung không thể trồng được nhiều loại rau, thức ăn chỉ có khoai tây, cà rốt, hành, bắp cải và... thịt! Đặc biệt thịt bò Mông Cổ rất mềm, có lẽ chỉ thua bò Kobe Nhật Bản.
Các doanh nghiệp Hàn Quốc đến đầu tư ở Ulan Bator khá nhiều, kéo theo sự hiện diện của một số nhà hàng xứ Hàn. Chúng tôi đã ăn một bữa đáng nhớ tại một nhà hàng Hàn Quốc mà nguyên liệu chủ yếu là thịt bò. Mức sống tại Ulan Bator chưa cao, nhưng nhờ thực phẩm chủ yếu là thịt và sữa nên người dân rất to lớn.
Đến đây vào những ngày nóng nhất trong năm nên chúng tôi có dịp ngắm nhìn những thiếu nữ Mông Cổ cao ráo, khỏe mạnh diện váy ngắn, quần soọc, áo hai dây trông đầy sức sống. Thành phố tuy chậm phát triển nhưng giới trẻ ở Ulan Bator có vẻ chịu ảnh hưởng phong cách sống của phương Tây: tích cực học tiếng Anh, ăn mặc khá mốt, tóc nhuộm vàng hoe. Phong trào du học cũng khá phổ biến.
Tuy nhiên, có một số phong tục gần như giới trẻ vẫn bắt buộc phải tuân theo, chẳng hạn theo phong tục thì khi anh chị lớn trong nhà chưa kết hôn các em có muốn lập gia đình lắm vẫn cứ phải chờ.
Ngày xưa, cứ đến mùa hè, người du mục Mông Cổ lại phải tính toán đến mùa đông sẽ đi đâu, theo hướng nào. Căn cứ vào màu sắc của một loài hoa trên sa mạc mà người ta sẽ ra quyết định. Loài hoa đặc biệt này mỗi năm lại có một màu khác như trắng, vàng hoặc hồng. Chẳng hạn nếu hoa nở màu trắng, người Mông Cổ sẽ đi về hướng Bắc, nơi có núi thấp hơn, ít gió hơn.
Ngày nay, đã có một triệu người du mục chỉ còn một hướng: mùa hè đến thảo nguyên xa để tìm lại hương đồng gió nội, còn mùa đông trở về nơi thị tứ để tránh cái lạnh và cho con cái đi học. Có lẽ vì thế mà Ulan Bator cứ phát triển… từ từ!
Nơi lưu giữ nghệ thuật của thảo nguyên
Trái tim của thành phố là quảng trường Soukhe Bator rộng thênh thang, có nhà Quốc hội bề thế với nhiều cửa sổ thật lớn. Ngay chính giữa tòa nhà là bức tượng Thành Cát Tư Hãn đang ngồi uy nghi. Xung quanh quảng trường đã xuất hiện một số cao ốc sáng choang, chấm phá những nét hiện đại đầu tiên cho Ulan Bator.
Nhưng chỉ cách trung tâm vài trăm mét, đường phố bắt đầu trông không mấy hấp dẫn bởi hai bên đường chủ yếu là những tòa nhà do các chuyên gia Liên Xô xây dựng từ ba, bốn thập niên về trước, hình khối vuông vức, đơn điệu, nay đã cũ kỹ. Đẹp nhất có lẽ là những ngôi chùa, tu viện có kiến trúc Tây Tạng với mái ngói xanh, tường sơn đỏ rực rỡ.
Từ hàng ngàn năm nay, Phật giáo Tây Tạng là quốc giáo của Mông Cổ. Trước thế kỷ XX, một phần ba nam giới nước này là tu sĩ, riêng đức Đạt Lai Lạt Ma thứ tư cũng là người Mông Cổ (1588). Vào năm 1924, Mông Cổ dựa vào Liên Xô để thoát khỏi sự thống trị của triều đình Trung Quốc và tiến hành xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa.
Trong thời kỳ này, hoạt động tôn giáo giảm dần, số tu sĩ ít đi. Từ năm 1989 đến nay, các hoạt động của Phật giáo mới từng bước được khôi phục, nhiều chùa chiền đã trở lại hoạt động bình thường. Trên đường phố dễ gặp những vị sư cao lớn mặc áo đỏ, đi giày lông thú, gương mặt trông rất hiền từ.
Ghé thăm Bảo tàng Lịch sử Mông Cổ, chúng tôi biết thêm nhiều loại sinh vật ngộ nghĩnh chỉ sống trên sa mạc và thảo nguyên, có cả xương khủng long hóa thạch, nhạc cụ làm bằng xương người, vũ khí của các chiến binh ngày xưa...
Bảo tàng về Đức Lạt Ma thứ tư người Mông Cổ cũng có rất nhiều cổ vật đặc sắc cho thấy đời sống tinh thần phong phú của những người du mục. Nhiều bức tranh đẹp miêu tả sống động tình yêu, hội hè và cả những thử thách trong những cuộc đời trên thảo nguyên. Những bức tượng, mặt nạ, phù điêu đều rực rỡ và rất có hồn, thể hiện trình độ thẩm mỹ tinh tế của người xưa.
Bảo tàng này trước đây vốn là một ngôi chùa lớn mang phong cách kiến trúc Tây Tạng. Trên tường, mái vòm và nội thất đều được trang trí cầu kỳ bằng nhiều vật linh thiêng. Bên cạnh những mái chùa cổ kính là vài chiếc lều hiện đại để tín đồ cầu nguyện.
Từ trung tâm thành phố mất công đi xa một chút là đến cung điện Mùa Đông. Đây là cung điện duy nhất còn nguyên vẹn của các đời vua Mông Cổ. Quần thể kiến trúc này khá lộng lẫy và còn lưu giữ nhiều vật dụng giúp du khách hình dung được phần nào đời sống của giới quý tộc ngày xưa. Nơi đây thường có các tiết mục ca múa nhạc truyền thống phục vụ du khách.
Nhạc cổ truyền Mông Cổ nghe vui tai và hùng tráng, rầm rập như tiếng đàn ngựa phi trên đồng cỏ, làm người nghe phấn chấn và hình dung đến không gian khoáng đạt nơi thảo nguyên. Đặc biệt ca sĩ ở đây có một lối hát bằng cách ém giọng trong cổ họng, âm phát ra chỉ là tiếng u…u như gió thổi qua sa mạc, nhưng giọng trầm bổng rất hay và đầy cảm xúc.
Ra khỏi thủ đô là hầu như không còn thấy nhà cửa nữa. Trước mắt chúng tôi chỉ có đồng cỏ mênh mông, tận chân trời là những đỉnh núi nhấp nhô. Thỉnh thoảng, những cơn gió tung cát mù trời. Chợt nghĩ: Liệu những người rời bỏ kiếp sống du mục có bao giờ thấy nhớ những vùng không gian bao la?
(theo Doanh nhân Sài Gòn Cuối tuần)
Loài ngựa hoang Mông Cổ có sức sống mạnh mẽ, kiên cường hiếm thấy trên thế giới. Nó có thể sinh tồn trên cao nguyên lạnh giá và cả vùng sa mạc nắng cháy khô hạn. Từ đầu thế kỷ XIII, Thành Cát Tư Hãn đã có thể huy động những đội binh mã thần tốc chinh phạt khắp các vùng Âu Á. Và đó cũng chính là miềm kiêu hãnh của người dân Mông Cổ khi xưa.
(THVL) Ulan Bator – Mông Cổ
08-03-2010
Tuy đất đai Mông Cổ rộng lớn nhưng hầu hết đều là sa mạc và thảo nguyên, vì thế, khoảng 1/3 dân số Mông Cổ đều tập trung sinh sống tại thủ đô Ulan Bator.
Ulan Bator trong tiếng Mông Cổ có nghĩa là "màu đỏ anh hùng" |
Trường thể dục thể thao của thủ đô Ulan Bator là nơi chuyên huấn luyện và đào tạo cho các học viên trẻ trở thành dũng sĩ và giúp họ nắm bắt đầy đủ những kỹ nghệ truyền thống của người dân Mông Cổ đã được truyền dạy hơn 800 năm qua. Từ thời đại của Thành Cát Tư Hãn, vì để khuyến khích tinh thần rèn luyện thể lực cho các binh sĩ, hàng năm đều có diễn ra lễ hội Naa - Dam. Lễ hội gồm có thi đua ngựa, bắn cung và đấu vật. Vì thế, đấu vật đã trở thành niềm kiêu hãnh của đàn ông Mông Cổ.
Đấu vật là môn thi không giới hạn tuổi tác và trọng lượng cơ thể |
Đấu vật là môn thi không giới hạn tuổi tác và trọng lượng cơ thể, bất kỳ phần nào trên cơ thể, từ đầu gối trở lên, chạm đất thì xem như ngưới đó bại trận. Phần thưởng cho người chiến thắng không chỉ là những phần quà có giá trị mà là niềm tự hào khi nhận được huy hiệu thể hiện sự thông minh và mạnh mẽ.
Ở Mông Cổ có một khuôn viên nhà mà chúng ta nên đến tham quan. Kiểu nhà này có thể giúp người dân Mông Cổ dễ dàng trong việc chăm sóc con trẻ. Đó chính là thôn Gia Phù – nơi có những ngôi nhà nằm gần nhau, hàng rào bằng gỗ xung quanh trông rất sạch đẹp. Trong mỗi ngôi nhà lều tròn bên trong hàng rào là một hộ gia đình.
Gia Phù – nơi có những ngôi nhà nằm gần nhau, hàng rào bằng gỗ xung quanh trông rất sạch đẹp |
Làng Gia Phù có nghĩa là hỗ trợ gia đình. Năm 2007, mô hình nhà này mới xuất hiện ở thủ đô Ulan Bator. Trước kia, những gia đình trong thôn này đều thuộc hộ gia đình thu nhập thấp, nhưng ngày nay, họ đều đã có cuộc sống tốt hơn, và con cái họ đều được đến trường. Đến nay, làng Gia Phù đã phát triển được 25 hộ gia đình.
Vì dân cư dọn đến thủ đô sinh sống ngày một đông đúc nên những ngôi nhà lều tròn được xem là mô hình nhà tiện lợi nhất, vừa đỡ tốn sức người, sức của mà lại có chức năng giữ ấm vào mùa đông và làm mát vào mùa hè cho người dân Mông Cổ. Ngôi làng Gia Phù được thành lập nên để hỗ trợ đời sống cư dân, những căn nhà lều tròn và hàng rào hoàn toàn đều được miễn phí.
Nghệ thuật hát cổ họng là kỹ năng hát đặc thù của người Mông Cổ. Hát cổ họng là nghệ thuật hát đòi hỏi lực ép hơi rất mạnh từ bụng thì mới có thể hát ra được. Khi hát thì đầu lưỡi, hàm trên, răng và cổ họng đều phải vận dụng hết. Đây được xem là một quá trình điều tiết và chiến đấu giữa các bộ phận trên sao cho thật thích hợp.
Kỹ nghệ hát cổ họng của dân tộc Mông Cổ là một chuỗi hệ thống các cơ quan trong cơ thể có mối liên quan mật thiết với nhau từ phổi, cuống họng, đầu lưỡi, hàm trên, răng, yết hầu, môi, mép môi…cùng tạo ra âm thanh. Người hát cổ họng phải nắm vững kỹ năng điều tiết và cân bằng nén khí để phát ra nhịp điệu cần thiết, có thể là những âm thanh trong trẻo cao vút hay luyến láy trầm, bỏng.
Qua thống kê, kỹ nghệ hát cổ họng ở Mông Cổ đã có trên 10 loại, vì thế, nghệ thuật hát cổ họng này được xếp vào văn hóa phi vật thể cấp quốc gia và ngày nay, ở Mông Cổ chỉ còn sót lại khoảng 20 người biết hát cổ họng.
Đàn Mã Đầu, hay còn gọi là Mã Đầu Cầm, là một loại nhạc cụ có từ rất lâu đời của Mông Cổ. Nó được phát triển từ nhạc cụ Hồ Cầm mà ra. Mã Đầu Cầm vốn là loại nhạc cụ được sử dụng phổ biến nhất vào thời kỳ Thành Cát Tư Hãn. 2 sợi dây đàn được làm từ lông đuôi ngựa, nhưng điểm độc đáo nhất chính là trên đỉnh cây đàn có điêu khắc hình đầu ngựa.
Người Mông Cổ xưa nay chỉ thích nuôi ngựa thả rong trên những cánh đồng cỏ hoang dã. Vì thế, công viên quốc gia ngựa Cáp Tư Đài là nơi chuyên nuôi thả ngựa trong môi trường tự nhiên lớn nhất của Mông Cổ ngày nay. Đó không phải là những chú ngựa hoang bình thường mà là loài ngựa hoang dã quý hiếm, hay còn gọi là ngựa Equus przewalskii, trên thế giới chỉ còn sót lại hơn 2.000 con và tất cả đều đang được bảo quản và nuôi thả tại Mông Cổ vì chỉ có những cánh đồng cỏ Mông Cổ mới phục dưỡng được loài ngựa này.
Giống ngựa hoang Mông Cổ này tuy không cao, chân ngắn nhưng sức lực của nó rất dồi dào, vì thế, nó chạy rất nhanh. Vì vậy, ở các dịch trạm vào thời Thành Cát Tư Hãn chỉ dùng giống ngựa hoang này để truyền tin. Ngựa hoang Mông Cổ đã từng được đánh giá là biến mất trên trái đất. Loài ngựa hoang Mông Cổ có sức sống mạnh mẽ, kiên cường hiếm thấy trên thế giới |
Gia Nữ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét