Quýt là loại trái cây có múi được
người Nhật trồng nhiều ở những vùng có khí hậu ấm áp ven biển Thái Bình
Dương và bán đảo Seto. Mỗi năm, nông dân Nhật Bản thu hoạch khoảng 1
triệu tấn quýt, gần phân nửa sản lượng này có nguồn gốc từ 3 tỉnh
Wakayama, Ehime và Shizuoka.
Tháng 5, cây quýt bắt đầu ra hoa trắng cả
vườn. Đối với những vườn quýt trồng ngoài trời, thời gian trái chín và
thu hoạch kéo dài từ tháng 9 đến tháng 12. Hiện nay, nhiều nông dân
trồng quýt trong nhà kính, với phương pháp canh tác này, cây quýt chỉ
cần trồng trong 1 năm là có thể cho trái.
Quýt của Nhật Bản là loại quýt không có
hạt. Vì vậy, để nhân giống, người ta phải ghép cành. Khi cây dùng làm
gốc ghép phát triển đến độ thích hợp, người ta cắt ngang thân cây, dùng
dao xẻ dọc 1 phần vỏ của cây và ghép cành quýt vào đó. Một năm sau, gốc
ghép phát triển hoàn chỉnh thành 1 cây quýt non, lúc này, nông dân có
thể mang chúng ra vườn để trồng.
Quýt Nhật Bản có vị ngọt thanh và màu
vàng tươi đẹp mắt. Để có được điều đó, ngoài yếu tố giống, người nông
dân đã bỏ công chăm sóc rất vất vả. Trước thời điểm cây quýt ra hoa,
nông dân bắt đầu công đoạn tỉa cành cho những thân cây nào quá rậm rạp.
Đến khi quýt cho trái non, người ta tiếp tục loại bỏ những trái không
đạt yêu cầu. Việc làm này giúp cây giảm bớt gánh nặng nuôi trái đồng
thời giúp những trái quýt còn lại phát triển tốt hơn.
Trái quýt no tròn, nhiều nước, vỏ vàng
óng ánh không chỉ nhờ được cung cấp đạm đầy đủ mà còn phụ thuộc vào ánh
nắng mặt trời. Sự thông thoáng giúp lá cây dễ quang hợp, ánh nắng được
hấp thu qua lá, tạo ra các chất hóa học để nuôi trái. Các chất này giúp
trái quýt phát triển và làm gia tăng độ ngọt.
Khi thu hoạch quýt phải thực hiện theo
cách thủ công, nông dân dùng kéo cẩn thận cắt từng trái quýt. Quýt sau
khi thu hoạch sẽ được tập hợp lại và vận chuyển về nhà máy để tiếp tục
xử lý. Tại đây, quýt được phân loại trên dây chuyền tự động hóa. Dây
chuyền trang bị máy móc hiện đại để có thể xác định trọng lượng và đánh
giá màu sắc của từng trái quýt. Hệ thống máy tính sẽ hiển thị các thông
số của mỗi trái quýt đi qua dây chuyền. Dựa vào đó, người ta biết được
có tổng cộng bao nhiêu trái quýt, trọng lượng và màu sắc của từng trái.
Từ sự chăm sóc và thu hoạch cẩn thận của nông dân đến công đoạn tuyển
chọn khắt khe, những trái quýt đến tay người tiêu dùng đã đạt được độ
hoàn hảo về hình dáng bên ngoài cũng như chất lượng bên trong.
Người Nhật thích ăn quýt tươi vừa mới mua
về hay những trái quýt được ủ lạnh dưới lớp tuyết mùa đông. Nước quýt
ép được dùng để nấu cơm, cơm quýt là nguyên liệu trong món sashimi cá
sống hay món sushi quýt.
Từ xa xưa, người ta đã dùng quýt để làm
thuốc và hương liệu. Trần bì tức vỏ quýt phơi khô là vị thuốc phổ biến
trong y học phương Đông. Ngoài công dụng làm thuốc, trần bì còn được
người Nhật dùng làm gia vị.
Quýt cũng đóng vai trò quan trọng trong
việc làm đẹp, các cô gái trẻ có thói quen tắm trong nước có những quả
quýt tươi. Họ cho rằng vitamin C và mùi thơm của quýt giúp tinh thần
sảng khoái và làn da mịn màng.
Ngôi đền Kitsumoto Jinja tọa lạc tại tỉnh
Wakayama thờ một nhân vật mà cư dân địa phương gọi là Tajimamori.
Truyền thuyết kể rằng, Nhật hoàng Meirei đã ra lệnh cho Tajimamori đi
tìm 1 loại trái cây kỳ diệu có khả năng giúp trường thọ. Nhưng khi
Tajimamori đem quả quý về thì Nhật hoàng Meirei đã qua đời. Theo dân
gian, quả quý đó là trái quýt ngày nay.
Người Nhật ví màu vàng của quýt như ánh
mặt trời giúp xua tan những điều xấu, mang lại may mắn và niềm vui. Quýt
mà Tajimamori mang về được đặt tên là Kunenbo có nghĩa là Quýt Vua –
một giống quýt có hạt.
Hiện nay, quýt không hạt là loại trái cây
có múi đặc trưng của Nhật Bản. Nhưng ngày xưa, vào thời Edo, thế kỷ 17,
loại quýt này được cho là mang đến điềm xấu, không ai muốn canh tác.
Theo thời gian, thực tế chứng minh quan niệm trên là sai lầm do vậy đến
giai đoạn cuối thời Edo, đầu thời Minh Trị, tức giữa thế kỷ 19, quýt
không hạt được trồng rộng rãi và tiêu thụ mạnh trong dân chúng. Người
Nhật gọi giống quýt có màu vàng đẹp mắt và vị ngọt của họ là Unshu
mikan.
Sau Chiến tranh Thế giới Thứ 2, người dân
Nhật Bản thiếu ăn do tổn thất từ cuộc chiến. Các khu vườn trồng quýt
được thay thế bằng những luống khoai lang và khoai tây để cung cấp lương
thực cho dân chúng. Sản lượng quýt giai đoạn này sụt giảm nghiêm trọng.
Đến những năm 1960, kinh tế Nhật Bản phát
triển bùng nổ, cuộc sống dư dả kéo theo nhu cầu của người dân tăng cao.
Họ muốn ăn ngon và quýt là một trong những loại trái cây theo mùa được
lựa chọn nhiều nhất. Diện tích trồng quýt được phục hồi.
Do cung không đáp ứng đủ cầu nên giá quýt
unshu mikan vào thời điểm đó rất cao. Chúng được mệnh danh là những
viên kim cương màu cam.
Không chỉ chi phối thị trường trái cây
trong nước, quýt unshu mikan còn được xuất khẩu ra nước ngoài. Tại
Canada, quýt Nhật Bản là trái cây được ưa thích nhân dịp Giáng sinh. Họ
gọi chúng là Quýt Satsuma, đó cũng là tên của tỉnh Satsuma, nơi chuyên
xuất khẩu quýt sang phương Tây.
Tuy nhiên, thời vàng son của trái quýt
unshu mikan đã kết thúc. Năm 1972, thông tin về quýt rớt giá, nông dân
phá sản hàng loạt và bị thiệt hại nặng dù trúng mùa, tràn ngập trên các
mặt báo. Nhiều nông dân đã phải đổ bỏ hàng tấn quýt sau khi thu hoạch do
không thể cạnh tranh nỗi với những trái cây cùng loại được nhập khẩu từ
nước ngoài.
Không thể ngồi yên, nông dân và cả giới
khoa học Nhật Bản đã hành động. Họ ứng dụng nhiều phương pháp canh tác
và kỹ thuật mới để giúp tạo ra những trái quýt ngọt hơn, màu sắc đẹp
hơn, rút ngắn thời gian cho trái và tăng sản lượng. Phản ứng mau lẹ này
của họ đã bắt kịp xu thế thay đổi của thị trường. Hiện nay, quýt Nhật
Bản đã trở lại với một tư thế vững chắc, tuy không chiếm lĩnh hoàn toàn
thị phần trong nước nhưng unshu mikan là một trong những loại trái cây
có giá cao.
Các nhà khoa học đã góp phần tạo nên sự
phong phú cho thế giới các loại quả có múi khi cho lai tạo một số trái
cây mới. Đó là trường hợp của giống quýt Dekopon. Dekopon có nguồn gốc
khá phức tạp. Trước tiên, người ta ghép quýt satsuma với cam ngọt
Trovita để tạo ra giống quýt Kiyomi. Tiếp tục kết hợp quýt kiyomi với
giống quýt Ponkan để cho ra quýt dekopon. Dekopon là thế hệ cháu của
quýt satsuma và cũng là quýt unshu mikan nổi tiếng.
Dekopon sở hữu những đặc điểm nổi trội
của các giống quýt có trước. Vỏ rất dễ lột, hàm lượng đường trong múi
quýt cao, tép quýt căng mọng nước và có màu vàng óng ánh. Quýt dekopon
ra đời tại Nhật Bản vào năm 1972 do Trung tâm nghiên cứu cây ăn trái của
tỉnh Nagasaki lai tạo. Tuy nhiên, vì nhiều lý do nên đến hơn 10 năm
sau, giống quýt này mới được mang ra trồng thí điểm.
Thanh Tâm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét