Nguồn gốc của lễ hội Obon là xuất phát từ lễ hội Vu lan bồn của
Phật giáo ở Trung Quốc, và được truyền sang Nhật Bản vào thế kỷ thứ VII.
Obon là một lễ hội truyền thống ở Nhật
Bản. Chữ Obon là hình thức viết giản lược của Urabon. Urabon được dịch
từ Ullambana (Vu-lan-bồn) trong tiếng Sanskrit, có nghĩa đen là “treo
ngược”. Từ này có ý đề cập đến những nỗi khổ đau khó lòng chịu đựng được
mà con người phải chịu đựng, dù là về tinh thần hay thể xác.
Thả hoa đăng trong dịp lễ hội Obon. |
Nguồn gốc của lễ hội Obon là xuất phát
từ lễ hội Vu lan bồn của Phật giáo ở Trung Quốc, và được truyền sang
Nhật Bản vào khoảng thế kỷ thứ VII. Vì những lý do tôn giáo, người ta
tin rằng, linh hồn của người quá cố sẽ về thăm nhà trong suốt thời gian
diễn ra lễ hội Obon.
Nghi thức cử hành lễ Obon được thực
hiện theo lời Đức Phật Thích Ca đã dạy trong kinh Vu-lan-bồn. Nội dung
kinh Vu-lan-bồn đầu tiên là được lưu truyền ở Ấn Độ, sau đó truyền sang
Trung Hoa, rồi từ Trung Hoa truyền sang Nhật Bản. Trong kinh Vu-lan-bồn
diễn tả sự tích ngài Mục Kiền Liên, một vị Đại đệ tử thần thông đệ nhất
của Đức Phật, cứu mẹ mình thoát khỏi cảnh khổ của kiếp ngạ quỷ đói khát
nhờ vào pháp Vu-lan-bồn.
Ý nghĩa khởi thủy của lễ hội
Vu-lan-bồn là để bày tỏ lòng hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ, để
báo hiếu công ơn sinh thành, dưỡng dục cao dày của cha mẹ và tổ tiên.
Khi truyền sang Nhật Bản, bên cạnh ý nghĩa chính đó, lễ hội Obon còn là
một thời điểm để mừng sự đoàn tụ của gia đình, là dịp để thắt chặt tình
thân giữa những người thân trong gia đình với nhau. Bên cạnh đó, lễ hội
Obon còn là dịp để bày tỏ lòng kính trọng đối với ông bà, tổ tiên đã quá
cố, thăm viếng mộ phần của tổ tiên, ông bà và cũng để mọi người tặng
quà đến người thân, bạn bè và cả những ân nhân, những người cấp trên.
Lễ hội Obon ở Nhật Bản thường được tổ
chức kéo dài trong ba ngày, có khi kéo dài cả tuần lễ, nên được gọi là
Tuần lễ Obon. Ngày đầu tiên là ngày đón mừng lễ hội, còn ngày cuối cùng
được xem là ngày tạm biệt lễ hội.
Mọi người quây quần trong vũ điệu Bon Odori. |
Vào dịp lễ hội Obon, mọi người dù có
đi đâu cũng đều trở về quê hương của mình, đoàn tụ với người thân trong
gia đình để cùng bày tỏ lòng thành kính tri ân, lòng hiếu thảo đến tổ
tiên, ông bà. Cũng trong những ngày này, người Nhật dọn dẹp nhà cửa sạch
sẽ, dâng cúng hoa quả, phẩm vật lên bàn thờ Phật, bàn thờ gia tiên ở
trong nhà.
Trong ngày đầu tiên của lễ hội Obon,
người ta treo và thắp sáng các lồng đèn ở phía trước căn nhà, đi thăm
viếng lăng mộ của người thân đã quá cố và quét dọn vệ sinh, tu sửa lăng
mộ và mời linh hồn của tổ tiên, ông bà, cha mẹ đã quá vãng về đoàn tụ
với con cháu. Ở một số vùng, lồng đèn không những được treo ở trong nhà
mà còn được treo dọc theo các con đường dẫn vào nhà để hướng dẫn linh
hồn người quá vãng.
Vào ngày cuối cùng của lễ hội Obon,
người ta đem lồng đèn đến thả ở các sông, hồ, các bờ biển, xem như là để
tiễn đưa linh hồn của người quá cố về với thế giới của họ. Thông
thường, trong đêm thả lồng đèn, người ta còn đốt pháo hoa.
Cũng trong dịp này, tín đồ Phật tử
thường dâng cúng phẩm vật lên chư Tăng để nhờ chư Tăng cầu nguyện và hồi
hướng phước đức cho tổ tiên, ông bà, cha mẹ đã quá vãng, cầu nguyện cho
họ được thoát khỏi chốn khổ đau, thoát khỏi cái khổ bị treo ngược, thác
sinh về những cảnh giới an lành.
Mặc dù lễ hội Obon là để bày tỏ lòng
tôn kính với người đã khuất, nhưng cũng là một dịp lễ vui nhộn trong
không khí đoàn tụ của gia đình. Trong suốt thời gian diễn ra lễ hội,
người ta thường tổ chức nhiều hội chợ, nơi có nhiều trò chơi để công
chúng tham gia vui chơi giải trí.
Thường thấy nhất là cảnh mọi người quy
tụ lại ở những nơi có tổ chức chương trình ca múa theo những vũ điệu
dân gian Bon Odori. Người dân mặc trang phục yukata (kimono mùa hè) và
nhảy múa xung quanh sân khấu ngoài trời. Bất cứ ai cũng có thể tham gia
Bon Odori.
Ngày nay, lễ hội Obon không chỉ được
tổ chức ở trên đất nước Nhật Bản mà còn được tổ chức ở nhiều nơi trên
thế giới, ở đâu có cộng đồng người Nhật sinh sống thì ở đó người ta tổ
chức lễ hội này.
Theo Giác Ngộ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét