Chủ Nhật, 6 tháng 1, 2019

Thực hư Đại Lý Nhất dương chỉ

Vào tháng 6.2010, một thông tin làm chấn động những độc giả ái mộ “đại hiệp” Kim Dung: Hiệp hội Bảo vệ di sản văn hóa dân tộc tỉnh Vân Nam - Trung Quốc phát hiện 2 tấm bia đá thời Tống tại vùng Nhĩ Nguyên, châu Đại Lý. Từ 2 tấm bia này đã hé lộ thân phận một nhân vật truyền kỳ.
Thân hoài tuyệt kỹ
Một trong 2 tấm bia là “Đại Lý Quốc Bố Tiếp Cao Quan Âm” có ghi năm khắc bia “Thịnh Đức ngũ niên”, tức năm thứ 5 Thịnh Đức. Suy ra, đây là năm Canh Tý 1180 - năm trị vì của Đại Lý Tuyên Tông Công Cực Hoàng đế Đoàn Trí Hưng, tức Nhất Đăng đại sư hay Đoàn Hoàng gia, Nam Đế, Nam Tăng - nhân vật đầy sắc thái truyền kỳ, xuyên suốt trong “Xạ điêu anh hùng truyện”, “Thần điêu hiệp lữ” của Kim Dung.Kết quả hình ảnh cho Thá»±c hÆ° Đại Lý Nhất dÆ°Æ¡ng chỉ
Cổ thành Đại Lý Ảnh: Internet
Vương triều Đại Lý tuy truyền qua 22 đời vua, 11 đời tổng quản, kéo dài hơn 300 năm không hề có chiến tranh, tương ứng với các triều Bắc Tống, Nam Tống, Kim, Nguyên của Trung Nguyên nhưng hiện vật và tư liệu lịch sử rất ít. “Tống sử” chỉ chép có 602 chữ về vương triều này, hoàng lăng thì không tìm thấy. Vì thế, tấm bia được coi là di vật của Nhất Đăng đại sư nêu trên rất có giá trị.
Nhất Đăng đại sư tinh thông Phật lý, nắm cả 2 môn võ học thượng thừa là Nhất dương chỉ và Tiên thiên công, công lực thâm hậu phi phàm, đứng vào hàng “Thiên hạ ngũ tuyệt”, lại đạo cao đức trọng, cứu người quên mình. Trong “Xạ điêu anh hùng truyện”, Nhất Đăng đại sư “mặc tăng bào bằng vải thô, 2 hàng lông mi trắng dài che rủ xuống khóe mắt, mặt mũi hiền từ, tuy trong mắt ẩn chứa vẻ sầu bi nhưng thần sắc ung dung, tôn quý”. Khi Hoàng Dung nói: “Bá bá vốn là hoàng đế nước Đại Lý ở Vân Nam. Thiên Nam nhất đế, uy danh hiển hách, thiên hạ ai mà không biết?”, Nhất Đăng cười khẽ: “Hoàng gia là giả, lão tăng là giả, uy danh hiển hách lại càng giả. Cũng như tiểu cô nương ngươi cũng là giả thôi”.
Trong truyện, nguyên nhân “ngộ đạo làm sư” của Đoàn Trí Hưng liên quan đến việc Hoa Sơn luận kiếm, tranh đoạt Cửu Âm chân kinh. Giáo chủ Toàn Chân giáo là Vương Trùng Dương đến Đại Lý truyền công phu Tiên thiên công cho Nam Đế để cùng chống lại Cáp mô công của Tây Độc Âu Dương Phong. Trong thời gian đó, sư đệ của Vương chân nhân là Châu Bá Thông vì buồn bã phát cuồng đã rong chơi trong cung, gây ra chuyện động trời: tư thông với phi tần sủng ái của Đoàn Trí Hưng là Anh Cô. Đứa con của mối tình vụng trộm này bị Cừu Thiên Nhận đả thương nhằm làm Đoàn Trí Hưng hao tổn nội lực để cứu nhưng ông đã không cứu vì ghen tuông. Anh Cô tức giận giết đứa bé rồi bỏ đi.
Đoàn Trí Hưng đau đớn và hối hận, quyết định xuất gia tu hành với pháp danh Nhất Đăng. Về sau, ông chữa nội thương cho Hoàng Dung, giác ngộ Cừu Thiên Nhận. Trong “Thần điêu hiệp lữ”, Nhất Đăng giúp Tiểu Long Nữ, hóa giải hận thù với Anh Cô và Châu Bá Thông, cùng nhau tham gia bảo vệ thành Tương Dương…
Từ tiểu thuyết đến sử liệu
Kỳ thực, trong chính sử, Đoàn Trí Hưng chưa hề xuất gia mặc dù trước đó đã có 7 vị hoàng đế họ Đoàn đi tu, trong đó có ông nội là Tuyên Nhân đế Đoàn Chính Nghiêm (tức Đoàn Dự) và cha là Chính Khang đế Đoàn Chính Hưng (tức Đoàn Dịch Trường) trong “Thiên Long bát bộ”. Đoàn Trí Hưng là hoàng đế đời thứ 18 của vương triều Đại Lý, lên ngôi vào năm 1171, tại vị 29 năm, năm 1200 thì băng hà, sử dụng các niên hiệu Lợi Trinh, Thịnh Đức, Gia Hội, Nguyên Hanh, An Định. Người kế vị là Đoàn Trí Liêm.
Tuy không thoái vị xuất gia nhưng Đoàn Trí Hưng “rất sùng Phật, kiến tạo tự viện, quân thần cũng đều đốc tín Phật đà, đưa tăng vào nội cung, sáng chiều kinh kệ, không lo quốc sự”. Theo đó, trong thời gian tại vị, Đoàn Trí Hưng đã xây dựng 60 ngôi chùa, làm hao tổn tài lực quốc gia rất lớn. Bên cạnh đó, ông cũng tăng cường xây dựng hệ thống phòng thủ ở Long Thủ quan, Long Vĩ quan và đô thành Dương Thư Miết (cổ thành Đại Lý).
Còn việc Châu Bá Thông gây loạn hậu cung khiến Nam Đế xuất gia chỉ thuần là hư cấu. Châu Bá Thông người Ninh Hải, Sơn Đông, là một hào phú và là cư sĩ Toàn Chân giáo, không phải sư đệ Vương Trùng Dương.
Trong các đời hoàng đế Đại Lý xuất gia, không ai có pháp danh là “Nhất Đăng đại sư” như Kim Dung viết, mà chỉ có Thực Đăng pháp sư, chính là Thượng Minh đế Đoàn Thọ Huy. “Đăng” tức là đèn, ngụ ý phá bóng tối, phá vô minh.
Trong khi đó, Vương Trùng Dương (1112-1170) tên thật là Trung Phu, tự là Doãn Khanh, người Hàm Dương, Kinh Triệu (nay là Hàm Dương, tỉnh Thiểm Tây). Vương xuất thân gia đình giàu có, học hành tử tế, giỏi cả văn chương và võ nghệ, tính tình hào sảng, từng thi đậu cử nhân văn (có thuyết nói là tiến sĩ), năm 1138 đậu cử nhân võ mới đổi tên là Thế Hùng.
Năm 47 tuổi, do bất đắc chí chốn quan trường, “trời khiến cho văn võ hai đường đều bế tắc”, Vương mới khẳng khái từ quan. Ông về quê ẩn cư chốn sơn lâm, học theo Lão Trang. Năm Đại Định nguyên niên triều Kim (1161), Vương bỏ nhà cửa, lên núi Chung Nam đào 1 mộ huyệt ở trong đó mà tu luyện, gọi là “Hoạt tử nhân mộ”. Phía trên lập bia ghi rằng: “Vương Hại Phong chi mộ” - mộ của thằng khùng. Năm Đại Định thứ 7 (1167), khi “nội đan đã thành”, Vương đốt lều cỏ, cầm bình bát bằng sắt đi vân du hành đạo về phía Đông.
Khi đến vùng Ninh Hải, Sơn Đông, Vương Trùng Dương thu nhận 4 đệ tử đầu tiên đồng hương với Châu Bá Thông. Bá Thông hâm mộ mới thỉnh Vương về tư dinh, lập am “Kim Liên đường” truyền Toàn Chân giáo. Tại đây, Vương Trùng Dương hình thành cơ sở truyền giáo đầu tiên “Tam giáo Kim Liên hội”, thu nạp thêm 3 người nữa thành 7 đại đệ tử, gọi là “Toàn Chân thất tử” gồm Khưu Xứ Cơ, Đàm Xứ Đoan, Vương Xứ Nhất, Lưu Xứ Huyền, Mã Ngọc, Hác Đại Thông, Tôn Bất Nhị, dần dần tín đồ theo rất đông, hình thành Bắc tông Đạo giáo, vị thế lớn mạnh.
Vương Trùng Dương truyền đạo trong 3 năm rồi dẫn 4 đệ tử trở về Quan Trung, trên đường đi đến Khai Phong, Hà Nam thì hóa (chết).

Người mở nghiệp vương triều Đại Lý

   0
    Trong “Xạ điêu anh hùng truyện”, Nhất Đăng đại sư nói với Quách Tĩnh và Hoàng Dung rằng: “Nước Đại Lý ta từ Thần Thánh Văn Vũ đế Thái tổ dựng nước là năm Đinh Dậu, so với lúc Tống Thái tổ Triệu Khuông Dẫn làm binh biến ở Trần Kiều khoác hoàng bào thì sớm hơn 23 năm…”.
    Hai lần đánh bại quân nhà Đường
    “Thần Thánh Văn Vũ đế Thái tổ” mà Nhất Đăng Đoàn Hưng Trí nói ở đây chính là Đoàn Tư Bình, người sáng lập vương triều Đại Lý. Cũng theo lời Nhất Đăng đại sư thì: “Họ Đoàn ta có nhân duyên tốt đẹp, chỉ là viên tiểu lại ở biên cương mà trộm được ngôi vua. Mỗi đời đều tự biết tài đức của mình quả thật không đủ để đảm đương việc lớn, nên trước sau run run sợ sợ, không dám có chỗ nào quá phận”. Sự thật thế nào?
    Vùng Nhĩ Hải, Thương Sơn của Vân Nam xưa là nơi định cư của tiên dân các tộc người Di, Bạch (Bạch man, Ô man). Đến đầu đời Đường thì khu Đại Lý đã trở thành trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của Vân Nam (đất Điền). Năm 738, Mông Bì La Các là thủ lĩnh của Mông Xá Chiếu (“chiếu” là bộ tộc, tiểu vương quốc) được nhà Đường giúp đỡ đã thâu tóm 5 chiếu còn lại, hình thành nhà nước Nam Chiếu. Trong quá trình phát triển của mình, Nam Chiếu không ngừng mở rộng lãnh thổ và họ Đoàn dần trở thành danh môn vọng tộc, đứng đầu các đại tộc Cao, Dương, Triệu, Lý, Đổng.
    Trung tâm Đại Lý hiện nay với những trà quán mang tên Nam Chiếu, Đại Lý Ảnh: INTERNET
    Trung tâm Đại Lý hiện nay với những trà quán mang tên Nam Chiếu, Đại Lý
    Tổ tiên của họ Đoàn ở Đại Lý có giả thiết là người tộc Khương hoặc dòng dõi của Cộng Thúc Đoàn của Trịnh Trang Công thời Xuân Thu chiến quốc. Theo GS Trương Tích Lộc, Chủ tịch Hội Nghiên cứu kế thừa và phát triển văn hóa lịch sử Nam Chiếu - Đại Lý tỉnh Vân Nam, thủy tổ họ Đoàn ở Đại Lý là Đoàn Kiệm Ngụy, người Bạch man, gốc Vũ Oai, Cam Túc. Hậu duệ họ Đoàn cũng công nhận điều này. “Nam Chiếu dã sử” viết: Họ Đoàn, người Vũ Oai, ông tổ Đoàn Kiệm Ngụy là tướng dưới thời Các La Phụng, được phong làm Thanh Bình Quan (tể tướng) trong những năm Thiên Bảo, truyền đến đời thứ sáu thì sinh ra Đoàn Tư Bình.
    Theo “Toàn Đường văn”, “Tân Đường thư”, “Nam Chiếu đức hóa bi”, “Man thư”, “Tư trị thông giám”, “Bạch cổ thông ký”, khi triều Đường và Nam Chiếu xảy ra xung đột do phu nhân của Các La Phụng bị quan người Hán là Trương Bân Đà làm nhục, Đoàn Kiệm Ngụy là đại tướng quân 2 lần đánh bại quân Đường. Lần thứ nhất phục binh ở Thương Sơn giết chết hơn 3 vạn, bắt sống 1 vạn quân Đường của tướng Tiên Vu Trọng Thông. Lần thứ hai tại Sa Bình, Đoàn Kiệm Ngụy và hoàng tử Phụng Già Dị đánh bại 10 vạn quân Đường, bức tướng Lý Mật phải nhảy xuống sông tự tử.
    Qua thống kê, trong gần 300 năm lịch sử nước Nam Chiếu, họ Đoàn ở Đại Lý đã có 5 người làm tể tướng, 7 người làm đại tướng quân.
    Thân phận kỳ bí
    Đến đời Đoàn Tư Bình thì Nam Chiếu đã suy yếu do loạn quyền thần. Năm 902, sau khi Thuấn Hóa Trinh qua đời, Tể tướng Trịnh Mãi Tự phát động chính biến và thừa cơ giết hại hơn 800 người trong vương tộc họ Mông, tự lập làm vua, đổi quốc hiệu là Đại Trường Hòa. Nam Chiếu chính thức diệt vong.
    Họ Trịnh giữ ngôi được 3 đời, đến năm 929 thì Tiết độ sứ Dương Can Trinh nổi dậy, lập Tể tướng Triệu Thiện Chính lên làm vua, đổi quốc hiệu là Đại Thiên Hưng. Được 1 năm thì Dương Can Trinh lại phế họ Triệu, tự mình lên ngôi, đổi quốc hiệu là Đại Nghĩa Ninh. Năm 930, Dương Can Trinh bị em trai là Dương Chiêu soán ngôi. Trong giai đoạn biến động này, Đoàn Tư Bình đang giữ chức Thông Hải Tiết độ sứ, vì tài nghệ xuất chúng nên bị Dương Can Trinh đố kỵ, nhiều lần tìm cách hãm hại. Được sự hỗ trợ của 2 đại tộc Đổng và Cao, Đoàn Tư Bình liên kết mượn quân của 37 bộ tộc (Man bộ) ở Điền Đông với lời thề chỉ thu thuế một nửa và giảm lao dịch trong 3 năm.
    Đầu năm 937, Đoàn Tư Bình thống lĩnh quân binh tấn công thảo phạt họ Dương, giết Dương Chiêu. Dương Can Trinh trốn về Kê Túc Sơn đi tu với pháp danh “Đại Hối”, Đoàn Tư Bình xá tội cho. Năm 938, Đoàn Tư Bình chính thức lên ngôi, đổi tên nước là Đại Lý (“lý” là sửa, trị), tức Thần Thánh Văn Vũ hoàng đế. Trong khi đó, đến năm 960 ở Trung Nguyên, Triệu Khuông Dẫn mới làm binh biến Trần Kiều, diệt nhà Hậu Chu, lập ra triều Đại Tống.
    Trong dân gian, cuộc đời Đoàn Tư Bình mang nhiều sắc thái huyền dị. Cho đến nay, nhiều địa phương ở Đại Lý trong các miếu thờ Bạch Vương và Bản chủ đều có phối tượng Đoàn Tư Bình thờ long trọng. Theo “Nam Chiếu dã sử”, phụ thân ông là quan đại thần Đoàn Bảo Long bị hiếm muộn, sau mẹ ông qua sông chạm phải gỗ hương trôi sông hóa rồng vàng chui vào tay áo mà có song thai sinh ra Đoàn Tư Bình và Đoàn Tư Lương.
    Khi kéo binh đến Long Thủ Quan, Dương Can Trinh đã phòng bị trước nên cố thủ rất chặt, Đoàn Tư Bình phải dừng quân hạ trại. Đêm ấy ông mộng thấy 3 điều lạ: Một là thấy người mất đầu, hai là bình ngọc bị mất quai, ba là gương vỡ. Tư Bình cho là điềm không lành, lo sợ nên hội với chư tướng muốn lui binh. Quân sư Đổng Gia La bàn rằng: “Ngài là bậc trượng phu, người mất đầu là chữ “phu” biến thành chữ “thiên” là ứng với thiên tử vậy; bình ngọc mất quai là chữ “ngọc” mất dấu chấm biến thành chữ “vương” là vua; trong gương có ảnh như người có địch, nay gương vỡ là đối thủ tan tành. Đấy đều là điềm lành trời báo tướng quân sẽ thành công”. Đoàn Tư Bình nghe hữu lý bèn quyết định xuất binh, quả nhiên khi đến bờ sông, có người thiếu nữ chỉ cho đường tắt đưa binh mã qua sông rất nhanh, nhờ đó tiến quân thế như phá trúc, mau chóng thành công.

    Lưu giữ bí kíp
    Theo “Tam Di tùy bút” của quan Trấn phủ sứ Lý Hạo viết vào đầu đời Minh thì Đoàn Tư Bình được một vị đại sư tinh thông võ nghệ và trận pháp truyền lại cho bộ kỳ thư “Nam Chiếu binh điển”. Bộ kỳ thư này có 8 quyển, gồm các phần binh luận, trận pháp, địa thế, kỹ pháp (võ thuật). Sách này về sau trở thành giáo trình quan trọng bậc nhất về dụng binh luyện võ của hoàng tộc họ Đoàn, được lưu trong mật thất Vô Vi tự.
    Thiên Tường - Theo Người Lao Động

    Không có nhận xét nào: