Những người sáng lập Google sải bước vào hội trường và
đám đông reo lên. Những học sinh không thể tin vào mắt mình. “Sergey
Brin và Larry Page... đang ở trong trường chúng tôi” - một học sinh tự
hào nhớ lại. Điều gì đã khiến cặp đôi lừng danh nhất thế giới công nghệ
đến ngôi trường Israel này mà không phải nơi nào khác?
Từ choáng ngợp...
Câu trả lời có ngay khi Sergey Brin cất lời. “Thưa các
quý ông và quý bà, các chàng trai và cô gái”, anh nói bằng tiếng Nga, sự
lựa chọn ngôn ngữ này tạo ra tràng pháo tay không dứt. “Tôi rời Nga khi
mới 6 tuổi” - Brin tiếp tục - Tôi đến Mỹ. Giống như các bạn, cha mẹ tôi
là người Nga gốc Do Thái điển hình. Cha tôi là giáo sư toán. Họ đều có
quan điểm nhất định với việc học. Và tôi nghĩ mình có thể liên hệ với
nơi này, vì tôi được kể rằng trường các bạn gần đây đã giành được bảy
trong tổng số 10 giải thưởng tại một cuộc thi toán toàn quốc”.
Hầu hết học sinh tại Shevach-Mofet, giống Brin, đều là
thế hệ thứ hai của người Nga gốc Do Thái. Shevach-Mofet tọa lạc tại khu
vực công nghiệp ở phía nam Tel Aviv, phần nghèo hơn của thành phố, và
nhiều năm liền nổi danh là một trong những ngôi trường khó ưa nhất thành
phố. Đầu những năm 1990, khi những làn sóng người Nga gốc Do Thái bắt
đầu đổ bộ vào Israel sau sự sụp đổ của Liên bang Xô viết, ngôi trường
trở thành một trong những trường tệ nhất thành phố, chủ yếu được biết
đến do nạn phạm tội. Đây cũng là một đặc tính mà những người nhập cư mới
đem theo đến Israel.
Tuy nhiên, dân nhập cư lại góp phần tạo ra phép mầu
kinh tế Israel. Lúc mới lập quốc năm 1948, dân số Israel là 806.000
người. Ngày nay, con số này là gần 8 triệu người, dân số của đất nước đã
tăng gần chín lần trong 60 năm. Dân số đã tăng gấp hai chỉ trong vòng
ba năm đầu tiên, khiến chính quyền mới hoàn toàn choáng ngợp. Công dân
Israel sinh tại nước ngoài hiện chiếm hơn 1/3 dân số cả nước. Trong số
mười người Do Thái Israel thì có chín người là dân nhập cư, hoặc là con
cháu thế hệ thứ nhất hay thứ hai của dân nhập cư.
Israel giờ đây là nhà của hơn 70 quốc tịch và nền văn
hóa khác nhau. Đây thật sự là một thách thức không nhỏ khi phải nghĩ
cách làm gì với dòng người nhập cư tuy rất tài năng, nhưng phải đối mặt
với rào cản về ngôn ngữ, văn hóa và cả tệ nạn. Ngày nay, bước chân vào
một doanh nghiệp khởi nghiệp hay trong một trung tâm R&D lớn ở
Israel, bạn có thể tình cờ nghe nhân viên nói tiếng Nga. Nỗ lực vươn đến
sự xuất sắc tràn ngập khắp Shevach-Mofet, và nó cũng phổ biến giữa làn
sóng người nhập cư mới nói trên, lan tỏa khắp ngành công nghệ Israel. Ít
ai biết là ngay từ đầu có một nhân tố khiến vai trò của làn sóng nhập
cư đến Israel trở nên độc đáo: những chính sách của Chính phủ Israel
được triển khai để đồng hóa những người mới đến.
Đến cam kết sẽ “mang đến 1 triệu người nhập cư nữa”
Sau khi Thế chiến thứ hai kết thúc và nạn diệt chủng
người Do Thái được biết đến nhiều hơn, các nước phương Tây vẫn không sẵn
lòng chào đón những người Do Thái sống sót. Với nhiều người Do Thái lúc
đó, họ thật sự không còn chốn dung thân theo đúng nghĩa đen. Nhận thức
sâu sắc lịch sử này, khi chế độ thuộc địa của Anh ở Palestine hết hiệu
lực, vào ngày 14-5-1948, “Bản tuyên ngôn lập quốc của Nhà nước Israel”
đã được Hội đồng nhân dân Do Thái ban hành. Trong đó nêu rõ: “Thảm họa
gần đây ập lên số phận người Do Thái - vụ thảm sát hàng triệu người Do
Thái ở châu Âu - là một minh chứng rõ ràng về sự cấp bách trong việc
giải quyết tình trạng vong quốc của chúng ta. Nhà nước Israel sẽ mở cửa
cho người nhập cư Do Thái”.
Israel trở thành quốc gia duy nhất trong lịch sử dứt
khoát nêu trong văn kiện lập quốc sự cần thiết của một chính sách nhập
cư tự do. Năm 1950, chính phủ mới của Israel củng cố bản tuyên ngôn bằng
Luật hồi quốc, đến tận ngày nay vẫn đảm bảo “mọi người Do Thái đều có
quyền đến với đất nước này” mà không có hạn ngạch số lượng. Luật này
cũng định nghĩa một người Do Thái là “một người sinh ra từ mẹ là người
Do Thái, hoặc đã cải đạo sang đạo Do Thái”. Quyền công dân Israel cũng
được cấp cho cả vợ hoặc chồng không phải người Do Thái, cho trẻ em không
phải người Do Thái và cháu của người Do Thái cũng như vợ hoặc chồng của
họ.
Điều quan trọng nhất là việc Israel có thể là nước duy
nhất tìm cách tăng số lượng dân nhập cư, và không chỉ cho người thuộc
dân tộc thiểu số hoặc kinh tế kém. Công việc chào đón và khuyến khích
dân nhập cư chiếm một vị trí trong nội các với một bộ chuyên trách vấn
đề này. Không giống Sở Di trú Hoa Kỳ, duy trì một trong những chức năng
chính là giữ người nhập cư ở ngoài; Bộ Tiếp nhận và nhập cư Israel chỉ
tập trung vào việc mang người nhập cư về nước. Nếu người Israel nghe
thấy trên đài phát thanh rằng lượng người nhập cư trong năm giảm, đây
được xem là tin xấu, giống như việc năm đó thiếu lượng mưa cần thiết.
Trong suốt mùa bầu cử, các ứng viên cho chức thủ tướng từ nhiều đảng
phái khác nhau đều thường xuyên cam kết sẽ “mang đến 1 triệu người nhập
cư nữa” trong nhiệm kỳ của họ.
Trong bối cảnh đó, chính quyền Israel đã xem việc giúp
người nhập cư hòa nhập vào xã hội là mục tiêu chính của Bộ Tiếp nhận và
nhập cư Israel. Đào tạo ngôn ngữ là một trong những ưu tiên khẩn cấp và
toàn diện của chính phủ này. Ngày nay, cơ quan này vẫn tổ chức những
khóa học tiếng Hebrew miễn phí cho dân nhập cư: năm giờ mỗi ngày, trong
ít nhất sáu tháng. Chính quyền thậm chí còn cung cấp một khoản trợ cấp
cho phí sinh hoạt trong thời gian học tiếng, để người nhập cư có thể tập
trung vào việc học ngôn ngữ mới thay vì bị phân tâm chỉ học cho xong.
Để công nhận nền giáo dục nước ngoài, Bộ Giáo dục Israel duy trì Phòng
đánh giá bằng cấp nước ngoài. Chính quyền cũng tiến hành những khóa học
để giúp người nhập cư chuẩn bị cho các kỳ thi chứng chỉ nghề nghiệp. Còn
Trung tâm Tiếp nhận khoa học có nhiệm vụ phối hợp các nhà khoa học mới
đến với những người lao động Israel, Bộ Tiếp nhận điều hành các trung
tâm khởi nghiệp, hỗ trợ vốn để lập công ty khởi nghiệp.
Trong lúc nhiều nước liên tục than vãn về việc bị nước
ngoài thu hút các tinh hoa doanh nhân và học giả, những người Israel cho
rằng “chảy máu chất xám” không hẳn là đường một chiều. Đúng hơn, giới
nghiên cứu môn di cư quốc tế ngày càng nhận ra một hiện tượng họ gọi là
“lưu chuyển chất xám”, theo đó người tài sẽ ra đi và định cư ở nước
ngoài rồi lại quay về cố hương, chứ không hoàn toàn “bỏ rơi” một trong
hai nơi này. Một nghiên cứu được Ngân hàng Thế giới công bố: “Trung
Quốc, Ấn Độ và Israel được hưởng nguồn đầu tư hoặc bùng nổ công nghệ
trong hơn một thập kỷ qua, và những đợt bùng nổ này được liên kết với
nhau bởi sự lãnh đạo từ cộng đồng những người làm việc ở hải ngoại của
cả ba nước này”.
Với Israel, trong quá khứ đa số nhà đầu tư Mỹ gốc Do
Thái thường không quan tâm đến nền kinh tế Israel. Phải rất lâu sau khi
Israel đã thành công hơn, nhiều người Do Thái hải ngoại mới bắt đầu nhìn
Israel như một điểm đến để kinh doanh, thay vì là nơi chỉ để làm từ
thiện hay biểu lộ lòng từ tâm. Vậy nên Israel cần phải sáng tạo trong
việc sử dụng cộng đồng Do Thái hải ngoại để thúc đẩy kinh tế. Truyền
thống của Israel trong việc nhờ cậy cộng đồng Do Thái hải ngoại - vốn
nhỏ nhưng tâm huyết - để xây dựng đất nước bắt nguồn từ chính những định
chế của nó, chẳng hạn như không quân Israel.
Gidi Grinstein từng là cố vấn cho cựu thủ tướng Ehud
Barak và là thành viên của nhóm đàm phán Israel tại hội nghị Trại David
năm 2000 với Tổng thống Mỹ Bill Clinton và nhà lãnh đạo Palestine Yasser
Arafat. Ông đã tách ra và thành lập trung tâm ý tưởng Reut Institute
của riêng mình, tập trung vào việc làm thế nào để Israel có thể trở
thành một trong số 15 nước giàu nhất thế giới vào năm 2020. Ông nêu luận
điểm: “Một hoặc hai thế hệ trước đây, ai đó trong gia đình chúng tôi đã
gói ghém đồ đạc rất nhanh và bỏ đi. Người nhập cư không ngại làm lại từ
đầu. Theo định nghĩa, họ là những người dám mạo hiểm. Một quốc gia của
người nhập cư là một quốc gia của tay chơi khởi nghiệp”.
|
DAN SENOR - SAUL SINGER
(TRÍ VƯƠNG dịch)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét